Hội nghị tập huấn Điều tra, thu thập thông tin về thực trạng kinh tế - xã hội của 53 dân tộc thiểu số năm 2024 (Phiếu xã)
- 26/06/2024 15:09
Thực hiện Quyết định số 628/QĐ-TCTK, ngày 14/7/2023 của Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê về việc ban hành phương án Điều tra, thu thập thông tin về thực trạng kinh tế - xã hội của 53 dân tộc thiểu số năm 2024; Ngày 25/6/2024, Cục Thống kê tỉnh Phú Yên tổ chức hội nghị tập huấn Điều tra, thu thập thông tin về thực trạng kinh tế - xã hội của 53 dân tộc thiểu số năm 2024 trên địa bàn tỉnh Phú Yên (Phiếu xã). Tham dự Hội nghị ở cấp tỉnh có đồng chí Cao Đăng Viễn, Cục trưởng Cục Thống kê; Các giám sát viên cấp tỉnh, cấp huyện; Đại diện thống kê cấp xã và Điều tra viên Phiếu xã . Phát biểu chỉ đạo tại hội nghị, ông Cao Đăng Viễn, Cục trưởng Cục Thống kê nhấn mạnh: Điều tra, thu thập thông tin về thực trạng KT-XH của 53 DTTS là cuộc điều tra mẫu quy mô lớn, phạm vi rộng nhằm thu thập thông tin phục vụ đánh giá tình hình và xây dựng, hoạch định chính sách liên quan đến công tác dân tộc, phát triển KT-XH cho các vùng dân tộc thiểu số giai đoạn 2026-2030; đồng thời làm cơ sở cập nhật hệ thống thông tin, dữ liệu thống kê về dân tộc thiểu số tại Việt Nam. Vì thế, giảng viên cần trình bày đầy đủ các nội dung cần thu thập trong phiếu điều tra; cách thức và kỹ năng phỏng vấn, khai thác thông tin 7 mục trong phiếu điều tra và cách nhập thông tin vào phiếu điều tra. Trong quá trình tập huấn, chú ý nhấn mạnh những điểm mới, những nội dung cần chú trọng trong phiếu điều tra. Đặc biệt cần lưu ý những sai sót mà các điều tra viên thường mắc phải để đảm bảo thông tin thu được có chất lượng tốt nhất. Cùng với đó, hướng dẫn các đại biểu tham dự lớp tập huấn sử dụng phần mềm điều tra, kết hợp thực hành nhằm nâng cao kỹ năng và cách thức thao tác, sử dụng các phần mềm phục vụ điều tra đạt hiệu quả nhất.. Hội nghị cũng đã dành thời gian để các học viên và giảng viên trao đổi, thảo luận, và giải đáp những vướng mắc, vấn đề phát sinh trong thực tế cũng như cách khai thác thông tin một số câu hỏi trong phiếu điều tra, qua đó giúp các điều tra viên được hiểu được các nội dung cần thu thập, nâng cao kỹ năng sẵn sàng thực hiện tốt cuộc điều tra, đảm bảo kết quả thu thập thông tin khách quan, đầy đủ và chính xác.Một số hình ảnh tại Hội nghị
Tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Phú Yên tháng 5 và 5 tháng đầu năm 2024
- 29/05/2024 10:40
Tháng 5/2024, tình hình kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh tiếp tục ổn định, các địa phương đẩy mạnh tổ chức kiểm tra các công trình thủy lợi để có biện pháp phòng chống hạn cho cây trồng và phòng chống cháy rừng; năng suất lúa đông xuân tăng khá so với năm trước, hoạt động chăn nuôi gia súc, gia cầm ổn định; tình hình thương mại dịch vụ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của Nhân dân; khu vực công nghiệp tiếp tục phát triển; các hoạt động đền ơn đáp nghĩa, chính sách an sinh xã hội đối với người có công, hộ nghèo theo quy định được thực hiện kịp thời. Bên cạnh những kết quả đạt được, tỉnh ta cũng gặp một số khó khăn như: Vốn đầu tư thực hiện thuộc nguồn vốn ngân sách Nhà nước do địa phương quản lý giảm 19,3% so với cùng kỳ năm trước; hoạt động của doanh nghiệp nhỏ và vừa còn gặp nhiều khó khăn, tỷ lệ doanh nghiệp giải thể tính đến ngày 30/4/2024 tăng 40%; nuôi trồng thủy sản tại thị xã Sông Cầu xảy ra việc tôm hùm, cá nuôi chết nhiều; số ca mắc bệnh sốt xuất huyết và tay chân miệng có xu hướng tăng. Dự ước tình hình thực hiện một số chỉ tiêu kinh tế - xã hội tháng 5/2024
Tổ chức tập huấn điều tra, thu thập thông tin về thực trạng KT-XH của 53 dân tộc thiểu số
- 23/05/2024 15:40
Ngày 13.5, tại TP Quy Nhơn, Tổng cục Thống kê tổ chức hội nghị tập huấn điều tra, thu thập thông tin về thực trạng KT-XH của 53 dân tộc thiểu số (DTTS) năm 2024 trên phạm vi cả nước. Dự hội nghị các có đồng chí: Nông Thị Hà - Thứ trưởng, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc; Nguyễn Thị Hương, Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê; Nguyễn Tự Công Hoàng, Phó Chủ tịch UBND tỉnh; ông Matt Jackson, Trưởng đại diện Quỹ dân số Liên hợp quốc tại Việt Nam và 325 đại biểu của ngành Thống kê, CA, Ủy ban Dân tộc, Ban Dân tộc đến từ 54 tỉnh, thành trong nước.Theo Tổng Cục Thống kê, đối tượng điều tra, thu thập thông tin đợt này là hộ dân cư người DTTS và UBND các xã. Yêu cầu đối với hộ cần đảm bảo được các thông tin về tên, tuổi, giới tính, hôn nhân, giáo dục, di cư, BHYT, việc làm, nhà ở, đất sản xuất... Đối với xã cần có được thông tin về đặc điểm của xã, hệ thống điện, đường giao thông, trường học, trình độ giáo viên, y tế, vệ sinh môi trường, chợ… Trong tháng 6.2024, Cục Thống kê các tỉnh, thành tiến hành lập bảng kê, chọn hộ điều tra; tháng 7 và tháng 8 tiến hành điều tra, thu thập thông tin; tháng 10 kiểm tra, ghi mã, nghiệm thu dữ liệu; tháng 12 xử lý tổng hợp kết quả điều tra; từ tháng 1-3.2025 biên soạn báo cáo kết quả chủ yếu của cuộc điều tra; tháng 4.2025 bàn giao kết quả điều tra cho Ủy ban Dân tộc.Phát biểu chỉ đạo tại hội nghị, Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê Nguyễn Thị Hương nhấn mạnh: Điều tra, thu thập thông tin về thực trạng KT-XH của 53 DTTS là cuộc điều tra mẫu quy mô lớn, phạm vi rộng (14.928 địa bàn) nhằm thu thập thông tin phục vụ đánh giá tình hình và xây dựng, hoạch định chính sách liên quan đến công tác dân tộc, phát triển KT-XH cho các vùng DTTS giai đoạn 2026-2030; đồng thời làm cơ sở cập nhật hệ thống thông tin, dữ liệu thống kê về DTTS tại Việt Nam. Vì thế, các giảng viên phải trình bày đầy đủ các nội dung cần thu thập từ cuộc điều tra này; cách thức và kỹ năng phỏng vấn, khai thác thông tin, ghi chép thông tin vào phiếu điều tra. Trong quá trình tập huấn, chú ý nhấn mạnh những điểm mới, những nội dung cần chú trọng trong phương án điều tra và phiếu điều tra. Đặc biệt cần lưu ý những sai sót mà các điều tra viên thường mắc phải để đảm bảo thông tin thu được có chất lượng tốt nhất. Cùng với đó, hướng dẫn các đại biểu tham dự lớp tập huấn sử dụng các phần mềm điều tra (capi, webform) kết hợp thực hành nhằm nâng cao kỹ năng và cách thức thao tác, sử dụng các phần mềm phục vụ điều tra đạt hiệu quả nhất.
Tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Phú Yên tháng 4 và 4 tháng năm 2024
- 26/04/2024 13:57
Tháng 4/2024, tình hình kinh tế xã hội trên địa bàn tỉnh tiếp tục ổn định, có mặt khởi sắc ở một số lĩnh vực như: Hoạt động thương mại và dịch vụ đáp ứng tốt nhu cầu đi lại, mua sắm, tiêu dùng của người dân; khu vực công nghiệp tiếp tục phát triển; các hoạt động đền ơn đáp nghĩa, chính sách an sinh xã hội đối với người có công, hộ nghèo theo quy định được thực hiện kịp thời. Bên cạnh đó, vẫn còn một số hạn chế, khó khăn như: Hoạt động trồng trọt gặp khó khăn do thời tiết nắng nóng, không có mưa; hoạt động của doanh nghiệp nhỏ và vừa còn gặp nhiều khó khăn, tỷ lệ doanh nghiệp phải tạm ngừng hoạt động sản xuất kinh doanh tính đến 31/3/2024 tăng 98,8%; doanh nghiệp giải thể tăng 34,8% so với cùng kỳ năm trước; bệnh tay chân miệng có xu hướng tăng. Dự ước tình hình thực hiện một số chỉ tiêu kinh tế - xã hội tháng 4/2024 như sau: 1. Tình hình sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản1.1. Nông nghiệp - Lúa vụ đông xuân: Tính đến ngày 15/4/2024, toàn tỉnh đã gieo cấy được 26.630,6 ha lúa đông xuân, giảm 0,3% so với cùng kỳ năm trước so với diện tích gieo trồng lúa vụ đông xuân năm 2023. Lúa đang giai đoạn chín sáp - thu hoạch, sản lượng lúa 31.356 tấn, tăng 3,1% so với cùng kỳ năm trước. Cơ cấu giống: Đài thơm 8, BĐR27, BĐR999, ĐV108, ML232, PY10,... - Cùng với việc gieo cấy lúa đông xuân, tính đến nay, các địa phương trên toàn tỉnh đã gieo trồng được 1.650 ha ngô, giảm 3,1%; mía 14.605,4 ha, tăng 0,4%; đậu tương 42,7 ha, giảm 43,8%; lạc 332,6 ha, tăng 19,6%; rau các loại 3.694,1 ha, giảm 2,5%; đậu các loại 1.010,2 ha, giảm 23,5%,... so với cùng kỳ năm trước. Sản lượng một số cây trồng trên địa bàn tỉnh như sau: Ngô 4.575,6 tấn, giảm 3,9%; sắn 113.020,6 tấn, tăng 0,9%; rau các loại 46.947,5 tấn, giảm 1,2% so với cùng kỳ năm trước. - Sản lượng thu hoạch một số cây công nghiệp lâu năm: Hồ tiêu 520,1 tấn, tăng 0,3%; cao su 1.805,6 tấn, tăng 1,6%; điều 49 tấn, giảm 2,2% so với cùng kỳ năm trước. Sản lượng một số loại cây ăn quả chủ yếu: Chuối 7.102,4 tấn, tăng 1%; dứa 4.953,4 tấn, giảm 1,4% so với cùng kỳ năm trước. - Chăn nuôi: Ước tính số lượng đàn trâu, bò giảm 2,9% (đàn trâu giảm 7,9%; đàn bò giảm 2,7%) so với cùng kỳ năm trước; đàn lợn giảm 2,7%; đàn gia cầm tăng 3,5%, trong đó đàn gà tăng 2,9% so với cùng kỳ năm trước. Đàn trâu giảm là do giá thịt hơi không tăng, đầu tư ít lãi nên người nông dân chăn nuôi có xu hướng giảm số lượng đầu con, tăng trọng lượng, đàn lợn giảm nguyên nhân là do một số trang trại chăn nuôi tạm nghỉ để hoàn chỉnh các thủ tục về đất đai, môi trường và một số trang trại chăn nuôi chủ động giảm quy mô chăn nuôi để đảm bảo môi trường. Sản lượng thịt trâu ước tính 120 tấn, tăng 2,8%; thịt bò 6.370 tấn, tăng 2,7%; thịt lợn 8.375 tấn, tăng 2,1%; thịt gia cầm 6.823 tấn, tăng 4,4%, trong đó thịt gà 5.800 tấn, tăng 4,6%; sản lượng trứng gia cầm 66,5 triệu quả, tăng 4,3%, trong đó trứng gà 18 triệu quả, tăng 3,7% so với cùng kỳ năm trước. 1.2. Lâm nghiệp Ước tính trong tháng 4/2024, khai thác 703,4 ha rừng trồng tập trung đến thời gian thu hoạch với sản lượng gỗ 57.607 m3, gấp 3,1 lần; sản lượng củi khai thác 5.200 ster tăng 2% so cùng kỳ năm trước. Sản lượng khai thác gỗ rừng trồng tăng là do giá gỗ nguyên liệu giấy tăng nên các hộ trồng rừng thu hoạch những diện tích rừng gần đến thời gian thu hoạch nên sản lượng gỗ ước tính tăng so cùng kỳ năm trước. Công tác quản lý, bảo vệ, phòng cháy, chữa cháy rừng được tăng cường, không chủ quan, lơ là, mất cảnh giác, đặc biệt trong mùa khô hạn. 1.3. Thuỷ sản - Trong tháng diện tích thả nuôi ước tính 275 ha, giảm 0,9% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Cá 16 ha, tăng 3,2%; tôm 211 ha, giảm 0,5%; thủy sản các loại 48 ha, giảm 4% so cùng kỳ năm trước. - Sản xuất giống tôm thẻ Post 15 trong tháng đạt 155 triệu con, tăng 17,4% so cùng kỳ năm trước. - Sản lượng thủy sản ước tính 8.770 tấn, tăng 3,7% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Cá 6.870 tấn, tăng 4%; tôm 1.077 tấn, tăng 5,3%; thủy sản khác 823 tấn, giảm 1,3%. Chia ra: + Sản lượng thuỷ sản khai thác 7.614 tấn, tăng 3,5%, trong đó: Cá các loại 6.773 tấn, tăng 4,1%; tôm 40 tấn, tăng 2,6%; thủy sản các loại 801 tấn, giảm 1,5%. Trong tổng sản lượng cá khai thác, cá ngừ đại dương 450 tấn, chiếm 6,6% và tăng 4,2% so với cùng kỳ năm trước + Sản lượng thủy sản nuôi trồng 1.156 tấn, tăng 4,7%, trong đó: Cá 97 tấn, giảm 2,5%; tôm 1.037 tấn, tăng 5,4%; thủy sản các loại 22 tấn, tăng 6,3%. 2. Sản xuất công nghiệp Trong tháng 4/2024 các sở, ban, ngành đã chủ động triển khai các nhiệm vụ, giải pháp nhằm tháo gỡ khó khăn, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất đẩy mạnh hoạt động sản xuất kinh doanh và thu hút đầu tư vào ngành sản xuất công nghiệp. Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tháng 4/2024 tăng 7,5% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Ngành công nghiệp khai khoáng tăng 9,2%; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 7,6%([1]); ngành sản xuất, phân phối điện, hơi nước tăng 6,6%; ngành cung cấp nước, quản lý và xử lý rác thải tăng 7,3%. Tính chung 4 tháng đầu năm 2024 chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tăng 8,3% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Ngành công nghiệp khai khoáng tăng 8,3%; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 8,3%; ngành sản xuất, phân phối điện, hơi nước tăng 7,6%; ngành cung cấp nước, quản lý và xử lý rác thải tăng 8,7%. Tháng 4/2024 một số doanh nghiệp, cơ sở sản xuất ngành công nghiệp đã nhận được các đơn đặt hàng ngay từ đầu năm của các đối tác trong và ngoài nước, đã ổn định sản xuất kinh doanh, đồng thời cải tiến mẫu mã sản phẩm và mở rộng thị trường tiêu thụ nên một số sản phẩm có sản lượng sản xuất tăng như: Tinh bột sắn 13 ngàn tấn, gấp gần 5,9 lần; quần áo các loại 1,5 triệu sản phẩm, tăng 14,7%; dăm gỗ các loại 12.260 tấn, tăng 13%; hải sản chế biến các loại 1.244 tấn, tăng 11,3%; điện thương phẩm 93,5 triệu kwh, tăng 7,1%; nước uống được 1,3 triệu m3, tăng 6,3%; đá xây dựng các loại 76,6 ngàn m3, tăng 6,3%; linh kiện điện tử 74 triệu sản phẩm, tăng 5,7%; điện sản xuất 211,2 triệu kwh, tăng 5,7%; nước đá các loại 57.654 tấn, tăng 3,2%; viên nén gỗ các loại 825 m3, tăng 3,4%; ván lạng gỗ các loại 902 tấn, tăng 3,2%; mây tre lá các loại 40 ngàn sản phẩm, tăng 2,6%; phân bón các loại 4.219 tấn, tăng 2,5%; nước mắm các loại 1,7 triệu lít, tăng 2,5%; đường kết tinh các loại 36.600 tấn, tăng 0,7% so với cùng kỳ năm trước. Một số sản phẩm sản xuất giảm như: Xi măng các loại 5.418 tấn, giảm 12,5%; thuốc viên các loại 179 triệu viên, giảm 15,6%; nhân hạt điều 1.395 tấn, giảm 12,2%; bia các loại 3,8 triệu lít, giảm 11%; trang in các loại 181 triệu trang, giảm 7,7% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 4 tháng sản phẩm sản xuất tăng so với cùng kỳ năm trước: Tinh bột sắn 54.891 tấn, tăng 33,9%; dăm gỗ các loại 44.443 tấn, tăng 28,3%; đường kết tinh các loại 125.753 tấn, tăng 18,7%; hải sản các loại 4.916 tấn, tăng 12,4%; quần áo các loại 5,7 triệu sản phẩm, tăng 10,2%; phân các loại 15.690 tấn, tăng 9,3%; điện thương phẩm 340,4 triệu kwh, tăng 8,9%; linh kiện điện tử các loại 283 triệu sản phẩm, tăng 7,6%; điện sản xuất 757,4 triệu kwh, tăng 6,9%; nước uống được 4,6 triệu m3, tăng 6,2%.... Do sự cạnh tranh gay gắt sản phẩm cùng loại trên thị trường, ảnh hưởng chi phí nguyên liệu đầu vào tăng,.. các doanh nghiệp chỉ nhận được những hợp đồng với sản lượng sản xuất nhỏ nên một số sản phẩm sản xuất giảm: Xi măng các loại 14.636 tấn, giảm 27,9%; thuốc viên các loại 648 triệu viên, giảm 16,2%; bia các loại 14,3 triệu lít, giảm 6,1%; trang in các loại 733 triệu trang, giảm 3,6% so với cùng kỳ năm trước. 3. Hoạt động của doanh nghiệp Tính từ đầu năm đến ngày 31/3/2024 trên địa bàn tỉnh có 133 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới, giảm 11,3%; tổng số vốn đăng ký kinh doanh của doanh nghiệp là 625,7 tỷ đồng, giảm 77,4%; vốn đăng ký bình quân 01 doanh nghiệp đạt 4,7 tỷ đồng/doanh nghiệp, giảm 74,5%; số doanh nghiệp quay trở lại hoạt động là 14 doanh nghiệp, giảm 6,7%; đã có 159 doanh nghiệp phải tạm ngừng hoạt động sản xuất kinh doanh, tăng 98,8% và có 31 doanh nghiệp sản xuất kinh doanh không hiệu quả đã hoàn tất thủ tục giải thể, tăng 34,8% so với cùng kỳ năm trước. 4. Vốn đầu tư Hiện nay các chủ đầu tư, nhà thầu tiếp tục thi công các dự án, công trình chuyển tiếp từ năm trước sang và gấp rút thực hiện các thủ tục để khởi công xây dựng các công trình mới trong năm 2024. - Vốn đầu tư thực hiện thuộc nguồn vốn ngân sách Nhà nước do địa phương quản lý tháng 4/2024 ước thực hiện 247,2 tỷ đồng, giảm 15,7% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Vốn ngân sách Nhà nước cấp tỉnh 131,7 tỷ đồng, giảm 35,6%; vốn ngân sách Nhà nước cấp huyện 114,6 tỷ đồng, tăng 30,7%; vốn ngân sách Nhà nước cấp xã 0,9 tỷ đồng, giảm 5,4%. - Tính chung 4 tháng đầu năm 2024 vốn đầu tư thực hiện thuộc nguồn vốn ngân sách Nhà nước do địa phương quản ước thực hiện 889,8 tỷ đồng, giảm 17,9% so với cùng kỳ năm trước, cụ thể: + Vốn ngân sách Nhà nước cấp tỉnh 463,5 tỷ đồng, giảm 36,6% so với cùng kỳ năm trước, do nhiều dự án lớn đã hoàn thành trong năm trước như: Sửa chữa nâng cấp công trình Chỉnh trị cửa sông Đà Nông (giai đoạn 1); Trường Chính trị tỉnh Phú Yên; Kè chống sạt lở bờ biển khu vực xã An Hòa Hải, huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên; Trường THPT Nguyễn Thị Minh Khai;… Hiện nay chủ yếu thực hiện các dự án chuyển tiếp từ năm 2023 như: Đầu tư xây dựng Bệnh viện sản nhi tỉnh Phú Yên; Kè chống xói lở bờ biển Xóm Rớ, phường Phú Đông, TP Tuy Hòa, (giai đoạn 3); Dự án sửa chữa, nâng cấp hồ chứa nước Xuân Bình;… + Vốn ngân sách Nhà nước cấp huyện 423,3 tỷ đồng, tăng 21,1% so với cùng kỳ năm trước. Tiếp tục thực hiện các công trình chuyển tiếp từ năm ngoái sang như: Khép kín khu dân cư phía Đông đường Trần Suyền, TP Tuy Hòa; Hạ tầng kỹ thuật khu dân cư Lò Vôi, Phường 1, TP Tuy Hòa; Thay thế bó vỉa hè bằng đá Granite và lát gạch vỉa hè bằng gạch Terrezzo các tuyến đường Trường Chinh, Nguyễn Thái Học, Nguyễn Huệ, Lê Lợi, Lê Trung Kiên thành phố Tuy Hòa;… Đồng thời, đầu tư khởi công mới một số dự án, công trình như: Sửa chữa, cải tạo trụ sở Thành ủy Tuy Hòa (Gói thầu 13XL+TB); Cải tạo, nâng cấp, mở rộng Trụ sở Công an phường Phú Đông, thành phố Tuy Hòa; Trụ sở làm việc Công an xã Bình Kiến, thành phố Tuy Hòa;… + Vốn ngân sách Nhà nước cấp xã 3 tỷ đồng, giảm 2,5% so với cùng kỳ năm trước. Tiếp tục thực hiện các công trình chuyển tiếp từ năm trước và đầu tư sửa chữa, nâng cấp nhà văn hóa các thôn, tổ dân phố;… 5. Tài chính, Ngân hàng 5.1. Tài chính Lũy kế đến ngày 16/4/2024, tổng thu ngân sách Nhà nước (NSNN) trên địa bàn là 1.465 tỷ đồng, đạt 27,2% dự toán Trung ương (DTTW) giao và dự toán HĐND tỉnh quyết định; tăng 37,4% so với cùng kỳ năm trước. Tổng chi NSĐP 4.071 tỷ đồng, đạt 36,7% DTTW giao và dự toán HĐND tỉnh quyết định; trong đó chi thường xuyên là 1.833 tỷ đồng. 5.2. Ngân hàng Tổng nguồn huy động vốn trên địa bàn tính đến 31/3/2024 đạt 43.303 tỷ đồng, tăng 3,6% so với cuối năm 2023. Ước đến 30/4/2024 tổng vốn huy động 43.710 tỷ đồng, tăng 4,5% so với cuối năm 2023. Trong đó, tiền gửi huy động từ các khu vực 43.445 tỷ đồng, tăng 4,7%; phát hành giấy tờ có giá bằng VND 265 tỷ đồng, giảm 13,7%. Tổng dư nợ cho vay trên địa bàn tính đến 31/3/2024 đạt 50.429 tỷ đồng, tăng 1,3% so với cuối năm 2023. Ước đến 30/4/2024 tổng dư nợ cho vay 50.972 tỷ đồng, tăng 2,3% so với cuối năm 2023. Đến ngày 31/3/2024, nợ xấu trên toàn địa bàn chiếm tỷ lệ 0,74% trên tổng dư nợ, hầu hết các TCTD đều đảm bảo duy trì tỷ lệ nợ xấu ở mức cho phép (< 3%). Ước đến ngày 30/4/2024, nợ xấu chiếm tỷ lệ khoảng 0,66% tổng dư nợ toàn địa bàn. 6. Thương mại, giá cả, dịch vụ Tình hình hoạt động thương mại, dịch vụ tiếp tục được duy trì ổn định và tăng so với tháng trước và so với cùng kỳ năm trước. Hiện nay thời tiết thuận lợi nên nhu cầu du lịch nội địa tăng mạnh trở lại nhất là vào những ngày Lễ lớn như: Giỗ tổ Hùng Vương, 30/4 và 01/5...; nhân kỷ niệm 49 năm ngày Giải phóng tỉnh Phú Yên (01/4/1975 – 01/4/2024) tỉnh đã tổ chức "Tuần Văn hóa - Du lịch Phú Yên 2024" với chủ đề “Về miền di sản Phú Yên”, từ ngày 30/3 đến ngày 05/4/2024 đã thu hút và phục vụ đông đảo các tầng lớp Nhân dân trong tỉnh và du khách, do đó lượt khách du lịch đến Phú Yên tăng kéo theo doanh thu các hoạt động dịch vụ như lưu trú, ăn uống, vui chơi giải trí và một số dịch vụ khác tăng cao. Tình hình vận chuyển hành khách và các loại vật tư, hàng hóa đều tăng so cùng kỳ năm trước, nhu cầu đi lại và vận chuyển hàng hóa, dịch vụ của người dân tăng cao. Hiện nay người dân đang bước vào mùa vụ thu hoạch nông sản, lâm sản, các loại hàng hóa khác, công trình xây dựng tiếp tục được triển khai, khởi công với số lượng nhiều, khối lượng lớn, do đó quá trình vận chuyển sản phẩm nông lâm sản tiêu thụ và nguyên vật liệu xây dựng tăng. Ước tính, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng 4/2024 ước tính 4.363,4 tỷ đồng, tăng 1,5% so với tháng trước và tăng 10,9% so với cùng kỳ năm trước; doanh thu bán buôn hàng hóa ước tính 2.260,5 tỷ đồng, tăng 1,4% và tăng 10,6%; doanh thu ngành vận tải, kho bãi ước tính 398,9 tỷ đồng, tăng 0,7% và tăng 13,1%. Tính chung 4 tháng đầu năm 2024, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng ước tính 17.508,9 tỷ đồng, tăng 11,9% so với cùng kỳ năm trước; doanh thu bán buôn hàng hóa ước tính 8.928,6 tỷ đồng, tăng 10,8%; doanh thu ngành vận tải, kho bãi ước tính 1.615,9 tỷ đồng, tăng 10,1%. 6.1. Bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng Trong tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng 4/2024: Ước tính tổng mức bán lẻ hàng hóa 3.483 tỷ đồng, tăng 1,2% so với tháng trước và tăng 9,8% so với cùng kỳ năm trước([2]); doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống và du lịch lữ hành 641 tỷ đồng, tăng 3,6% so với tháng trước, tăng 11,4% so với cùng kỳ năm trước (chia ra: Doanh thu dịch vụ lưu trú 69,7 tỷ đồng, tăng 5,2% và tăng 18,4%; doanh thu dịch vụ ăn uống 570,6 tỷ đồng, tăng 3,4% và tăng 10,5%; doanh thu du lịch lữ hành đạt 0,7 tỷ đồng, giảm 15,7% và gấp 6,2 lần); doanh thu dịch vụ khác 239,4 tỷ đồng, tăng 0,4% và tăng 29%([3]). Tính chung 4 tháng đầu năm 2024, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng ước tính 17.508,9 tỷ đồng, tăng 11,9% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Tổng mức bán lẻ hàng hóa 13.937,2 tỷ đồng, tăng 10,4%([4]); doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống và du lịch lữ hành 2.574,2 tỷ đồng tăng 13,2% (chia ra: Doanh thu dịch vụ lưu trú 263 tỷ đồng, tăng 28,5%; doanh thu dịch vụ ăn uống 2.309,1 tỷ đồng, tăng 11,9%; doanh thu du lịch lữ hành đạt 2,1 tỷ đồng, tăng 81,8%); doanh thu dịch vụ khác 997,5 tỷ đồng, tăng 32,4%. Trong 4 tháng đầu năm 2024, nhiều nơi trên địa bàn tỉnh hoạt động văn hóa, nghệ thuật và ca nhạc do tỉnh, các địa phương trên địa bàn tỉnh tổ chức; nhiều hoạt động do các doanh nghiệp kinh doanh lưu trú tổ chức tại đơn vị để phục vụ và thu hút khách du lịch. Ước tính 4 tháng đầu năm 2024 tổng lượt khách du lịch đến Phú Yên khoảng 1,22 triệu lượt khách, tăng 25,2% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khách quốc tế hơn 11 ngàn lượt khách, tăng 80,1%; tổng thu từ khách du lịch 2.273,3 tỷ đồng, tăng 67%. Tổng lượt khách lưu trú 749,7 ngàn lượt khách, tăng 18,7%, trong đó khách quốc tế 8,5 ngàn lượt, tăng 77,1% so với cùng kỳ năm trước. 6.2. Chỉ số giá Chỉ số giá tiêu dùng tháng 4/2024 giảm 0,14% so tháng trước, trong 11 nhóm hàng hóa và dịch vụ có 4/11 nhóm có chỉ số giá giảm, 6/11 nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá tăng. Các nhóm giảm nhiều là nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống giảm 1,12% (tác động làm CPI chung giảm 0,38%) do đang mùa thu hoạch lúa vụ đông xuân nên giá lúa giảm, kéo theo giá gạo và giá các mặt hàng lương thực khác như bún, bánh phở giảm; giá thực phẩm, rau củ giảm do thời tiết thuận lợi, nguồn cung dồi dào; đồ uống và thuốc lá giảm 0,15%. Nhóm có giá tăng cao nhất là nhóm giao thông tăng 1,82% do ảnh hưởng của các đợt điều chỉnh giá nhiên liệu tăng vào ngày 4/4/2024; 11/4/2024 và 17/4/2024 và nhu cầu thuê ô tô, xe máy tự lái tăng; tiếp đến là nhóm nhà ở, điện nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 0,33%, dù giá gas trong nước giảm do giá gas thế giới giảm nhưng nhu cầu sử dụng điện, nước trong thời tiết nắng nắng tăng cao làm giá mặt hàng này tăng; nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,29% do nhu cầu sử dụng và tiền công thợ tăng…. Nhóm có giá không đổi so với tháng trước là bưu chính viễn thông. So cùng kỳ năm trước chỉ số giá tiêu dùng tháng 4/2024 tăng 4,31%, tăng ở tất cả các nhóm hàng hóa và dịch vụ, cụ thể: Nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 3,61%; nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 2,71%; nhóm may mặc, mũ nón, giầy dép tăng 2,76%; nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 8,51%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 1,73%; thuốc và dịch vụ y tế tăng 9,97%; giao thông tăng 2,94%; bưu chính viễn thông tăng 0,42%; giáo dục tăng 1,67%; văn hóa, giải trí và du lịch tăng 1,6%; hàng hóa và dịch vụ khác tăng 5,67%. So tháng 12 năm trước chỉ số giá tiêu dùng tháng 4/2024 tăng 1,16%. Chỉ số giá tiêu dùng bình quân 4 tháng năm 2024 tăng 2,58% so bình quân cùng kỳ năm trước, trong đó có 6 nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá tăng hơn chỉ số giá chung: Thuốc và dịch vụ y tế tăng 10,04% (trong đó dịch vụ y tế tăng 11,29%); nhà ở, điện nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 7,01%; hàng hóa và dịch vụ khác tăng 6,34%; may mặc, mũ nón, giày dép tăng 2,97%; hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 2,87%; đồ uống và thuốc lá tăng 2,64%. - Giá vàng 99,99 bình quân tháng 4/2024 là 7.190.000 đồng/chỉ; so tháng trước tăng 8,45%; so cùng tháng năm trước tăng 28,85%; so tháng 12 năm trước tăng 17,99%; so kỳ gốc 2019 tăng 84,69%. Giá vàng 99,99 bình quân 4 tháng năm 2024 là 6.594.000đồng/chỉ so bình quân cùng kỳ năm trước tăng 20,56%. - Giá Đô la Mỹ bình quân tháng 4/2024 là 25.131 VND/USD; so tháng trước tăng 1,17%; so cùng tháng năm trước tăng 6,32%; so tháng 12 năm trước tăng 2,91%; so kỳ gốc 2019 tăng 7,94%. Giá Đô la Mỹ bình quân 4 tháng năm 2024 là 24.784VND/USD so bình quân cùng kỳ năm trước tăng 4,46%. 6.3. Giao thông vận tải Công tác quản lý giao thông vận tải tiếp tục được tăng cường, đẩy mạnh. Duy trì kiểm soát tải trọng phương tiện, đồng thời tăng cường thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm trong hoạt động vận tải, nhất là vận tải khách, đảm bảo trật tự an toàn giao thông. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, nâng cao hiệu quả khai thác dữ liệu trên thiết bị giám sát hành trình để xử lý chủ phương tiện lái xe vi phạm pháp luật, phục vụ tốt nhu cầu đi lại và vận chuyển hàng hóa của Nhân dân. Hoạt động vận tải hàng hóa phục vụ cho sản xuất và tiêu dùng trên thị trường được lưu thông thông suốt; vận tải hành khách được đảm bảo, không để ứ đọng khách kể cả thời điểm trước, trong và sau khi tổ chức các sự kiện và mùa Lễ hội. Tổng doanh thu ngành vận tải tháng 4/2024 ước tính 398,9 tỷ đồng, tăng 13,1% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: Doanh thu vận tải hành khách ước tính 68,2 tỷ đồng, tăng 19,5%; doanh thu vận tải hàng hóa ước tính 328,3 tỷ đồng, tăng 12,5%; kho bãi và dịch vụ hỗ trợ vận tải ước tính 1,7 tỷ đồng, giảm 45,2%; bưu chính, chuyển phát 0,7 tỷ đồng, giảm 16,1%, do nhu cầu về các dịch vụ này giảm so với cùng kỳ năm trước. - Khối lượng hành khách vận chuyển đường bộ tháng 4/2024 ước tính 816,9 ngàn lượt khách, tăng 2,3%; luân chuyển 76.108,4 ngàn lượt khách.km, tăng 12,6% so với cùng kỳ năm trước. - Khối lượng hàng hóa vận chuyển đường bộ tháng 4/2024 ước tính 983,9 ngàn tấn, tăng 5,4%; luân chuyển 74.395,9 ngàn tấn.km, tăng 9,3% so với cùng kỳ năm trước. Lũy kế 4 tháng đầu năm doanh thu ngành vận tải đạt 1.615,9 tỷ đồng, tăng 10,1% so với cùng kỳ năm trước. Khối lượng hành khách vận chuyển 3.441,8 ngàn lượt khách, tăng 4,9%; luân chuyển 282.895,5 ngàn lượt khách.km, tăng 13,3% so với cùng kỳ năm trước. Khối lượng hàng hóa vận chuyển đường bộ 4.019,5 ngàn tấn, tăng 6,4%; luân chuyển 306.062,3 ngàn tấn.km, tăng 11,1% so với cùng kỳ năm trước. Vận tải hàng không: Lượng hành khách qua Cảng hàng không Tuy Hòa trong tháng ước tính 30.210 lượt khách, luỹ kế 4 tháng đầu năm đạt 111.719 lượt khách, giảm 23,4% so với cùng kỳ năm trước. Vận tải đường sắt: Lượng hành khách lên tàu tại các Ga trên địa bàn tỉnh trong tháng ước tính 12.091 lượt khách, luỹ kế 4 tháng đầu năm đạt 42.055 lượt khách, tăng 19,2% so với cùng kỳ năm trước. Vận tải đường biển: Lượng hàng hóa thông qua cảng Vũng Rô trong tháng ước tính 21.000 tấn, luỹ kế 4 tháng đầu năm đạt 46.000 tấn, giảm 32,4% so với cùng kỳ năm trước. Luồng tuyến vận tải: Đã duy trì hoạt động các tuyến vận tải; đến nay có 37 tuyến vận tải khách liên tỉnh, 05 tuyến nội tỉnh, 04 tuyến vận tải khách công cộng bằng xe buýt; tổng số phương tiện vận tải hành khách 1.187 xe/13.984 ghế (trong đó: số lượng xe hoạt động tuyến cố định 87 xe/2.597 ghế, hợp đồng 418 xe/6.852 ghế, xe buýt 21 xe/973 ghế, xe taxi 647 xe/3.338 ghế, 14 xe trung chuyển/224 ghế); tổng số phương tiện vận tải hàng hóa (đầu kéo, container, xe tải) đã cấp phép vận tải 3.308 xe/29.943 tấn. 6.4. Xuất, nhập khẩu Tổng kim ngạch xuất khẩu tháng 4 ước thực hiện 28 triệu USD, tăng 42% so với cùng kỳ năm trước. Một số mặt hàng xuất khẩu tăng như: Sản phẩm gỗ 2,8 triệu USD, tăng 56,4%; quần áo may sẵn 4,4 triệu USD, tăng 49,3%; hải sản các loại 14,4 triệu USD, tăng 36,2%; linh kiện điện tử 2,7 triệu USD, tăng 10,7%; kính 0,7 triệu USD, tăng 7,7%. Mặt hàng xuất khẩu giảm: Nhân hạt điều 0,42 triệu USD, giảm 32,3%; Kim ngạch nhập khẩu tháng 4 ước thực hiện 12 triệu USD, tăng 13,2% so với cùng kỳ năm trước. Một số mặt hàng nhập khẩu tăng như: Vải và phụ liệu may mặc 1,6 triệu USD, tăng 12%; máy móc thiết bị phụ tùng 2,5 triệu USD, tăng 3,5%; hóa chất 2,4 triệu USD, tăng 2,1%. Lũy kế 4 tháng đầu năm, tổng kim ngạch xuất khẩu ước thực hiện 100,3 triệu USD, đạt 35,2% kế hoạch năm, tăng 33,1% so với cùng kỳ năm trước; tổng kim ngạch nhập khẩu ước thực hiện 42,9 triệu USD, đạt 22,6% kế hoạch năm, tăng 13,5% so với cùng kỳ năm trước. 7. Một số vấn đề xã hội 7.1. Hoạt động văn hóa, thể thao Tổ chức tuyên truyền, cổ động trực quan, trang trí khánh tiết Kỷ niệm 49 năm Ngày giải phóng tỉnh Phú Yên (01/4/1975 - 01/4/2024); kỷ niệm 49 năm Ngày giải phóng Miền Nam thống nhất đất nước (30/4/1975 - 30/4/2024) và Ngày Quốc tế lao động 01/5 với 134m2 cụm pano cố định và 200 pano các loại. Bảo tàng tỉnh vào sổ kiểm kê bước đầu 55 hiện vật đã thông qua Hội đồng khoa học; kiểm kê, sắp xếp, bảo quản định kỳ hiện vật các chất liệu hiện có trong kho([5]); phục vụ 967 lượt khách tham quan nhà trưng bày Bảo tàng tỉnh, trong đó 820 lượt khách là học sinh, sinh viên, 25 lượt khách nước ngoài. Tổ chức Tuần lễ Sách và Văn hóa đọc năm 2024 và các hoạt động khuyến đọc chào mừng Ngày Sách và Văn hóa đọc Việt Nam (21/4); tham gia gian hàng trưng bày tài liệu tại Hội sách tỉnh Phú Yên lần thứ VII năm 2024. Nhà hát ca múa nhạc dân gian Sao Biển tổ chức biểu diễn chương trình nghệ thuật Lễ Khai mạc và Bế mạc Tuần Văn hóa - Du lịch Phú Yên 2024; Lễ Khai mạc giải Marathon và cự ly dài báo Tiền Phong lần thứ 65; Hội nghị hợp tác phát triển văn hóa, thể thao và du lịch Ninh Thuận - Phú Yên giai đoạn 2024 - 2025; chương trình nghệ thuật Triển lãm “Du lịch qua các miền di sản và danh thắng Việt Nam” và chương trình giao lưu tại tỉnh Điện Biên; trong tháng biểu diễn 07 buổi (trong tỉnh: 04 buổi, ngoài tỉnh: 03 buổi). Thể dục, thể thao quần chúng: Tổ chức Giải chinh phục đỉnh cao Núi Đá Bia Phú Yên 2024; tổ chức giải Thể thao học đường thành phố Tuy Hòa năm học 2023 - 2024; tổ chức Hội thao ngành Ngân hàng năm 2024. Thể thao thành tích cao: Đội Bóng đá U17 tham dự vòng loại Giải Bóng đá Vô địch U17 quốc gia từ ngày 11/3 - 08/4/2024, tại tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu, kết quả xếp 4/6 đội Bảng C. Đội Karate tham gia thi đấu Giải Vô địch Karate Miền Trung, Tây Nguyên lần thứ X năm 2024 tại tỉnh Đắk Lắk, kết quả đạt 2 huy chương vàng, 5 huy chương đồng. 7.2. Y tế, giáo dục - Y tế (Tính đến ngày 18/4/2024) Sốt xuất huyết: Trong tháng phát hiện 6 ổ dịch, 143 ca mắc, không tử vong; so với cùng kỳ năm trước giảm 4 ổ dịch, số mắc giảm 15,4%, tử vong tương đương. Lũy kế toàn tỉnh có: 19 ổ dịch, 563 ca mắc sốt xuất huyết, không tử vong; so với cùng kỳ năm trước: Giảm 7 ổ dịch, số ca mắc tăng 5,4%, tử vong giảm 2 ca. Bệnh tay chân miệng: Phát hiện 31 ca mắc, không tử vong; so với cùng kỳ năm trước số mắc gấp 15,5 lần. Lũy kế toàn tỉnh có: 53 ca mắc, không tử vong; so với cùng kỳ năm trước số mắc gấp 10,6 lần. Sốt rét: Phát hiện 1 ca mắc, SRAT 0, tử vong 0; so với cùng kỳ năm trước số mắc tương đương. Lũy kế toàn tỉnh có 1 ca mắc, SRAT 0, tử vong 0; so với cùng kỳ năm trước số mắc tương đương. Bệnh dại không ghi nhận trường hợp tử vong. Lũy kế ghi nhận 2 trường hợp tử vong do dại, tăng 1 ca so với cùng kỳ năm trước. Chương trình tiêm chủng mở rộng, dự kiến đến cuối tháng 4/2024 đạt 13,8% số trẻ dưới 1 tuổi được tiêm chủng đầy đủ 8 loại vắc xin phòng bệnh; số bà mẹ mang thai được tiêm phòng uốn ván 2 mũi đạt tỷ lệ 24,6%. - Giáo dục Tổ chức thành công Hội thi giáo viên dạy giỏi tiểu học cấp tỉnh năm học 2023-2024; Hội thi "Cô cấp dưỡng giỏi" cấp tỉnh GDMN năm học 2023-2024. Cuộc thi Khoa học, kỹ thuật toàn quốc năm học 2023-2024, Phú Yên có 2 dự án tham gia dự thi đạt 01 giải Ba và 01 giải Tư; tham dự Kỳ thi Olympic truyền thống 30/4 lần thứ XXVIII năm 2024 tại thành phố Vũng Tàu, Trường THPT chuyên Lương Văn Chánh đạt được 44 huy chương/54 thí sinh dự thi. Kỳ thi chọn học sinh giỏi THPT cấp tỉnh năm học 2023-2024 được tổ chức tại 04 Hội đồng thi gồm: THPT Nguyễn Huệ, THPT Phan Bôi Châu, THPT Trần Quốc Tuấn và THPT Lê Lợi (Kỳ thi có 1.005 thí sinh dự thi/1.908 thí sinh đăng ký). 7.3. Trật tự an toàn xã hội – cháy nổ - An toàn giao thông: Từ ngày 15/3/2024-14/4/2024, toàn tỉnh đã xảy ra 25 vụ tai nạn giao thông, tăng 12 vụ; làm chết 13 người, tăng 2 người; bị thương 21 người, tăng 10 người so với cùng kỳ năm trước; thiệt hại tài sản 640,9 triệu đồng. Chỉ xảy ra tai nạn giao thông đường bộ, không xảy ra tai nạn giao thông đường sắt. Lũy kế từ 15/12/2023-14/4/2024, toàn tỉnh đã xảy ra 101 vụ tai nạn giao thông, tăng 8 vụ; làm chết 55 người, giảm 4 người; bị thương 74 người, tăng 6 người so với cùng kỳ năm trước; thiệt hại tài sản 1.827 triệu đồng. Trong đó, tai nạn giao thông đường bộ xảy ra 98 vụ, tăng 8 vụ; làm chết 51 người, giảm 5 người; bị thương 74 người, tăng 6 người so với cùng kỳ năm trước; thiệt hại tài sản 1.811 triệu đồng. Tai nạn giao thông đường sắt xảy ra 3 vụ, làm chết 4 người, so với cùng kỳ năm trước bằng số vụ, tăng 1 người chết và tương đương số người bị thương; thiệt hại tài sản 16 triệu đồng. - Tình hình cháy, nổ: Từ ngày 15/3/2024-14/4/2024 toàn tỉnh xảy ra 2 vụ cháy (01 vụ cháy rẫy mía, 01 vụ cháy rẫy sầu riêng) của người dân, không có thiệt hại về người, thiệt hại về tài sản khoảng 4,45 ha mía, 21 cây sầu riêng bị cháy và một số tài sản khác, chưa xác định được giá trị thiệt hại. Lũy kế đến 14/4/2024 toàn tỉnh xảy ra 4 vụ cháy, thiệt hại khoảng 18,4 ha mía, 21 cây sầu riêng. 7.4. Vi phạm môi trường - Vi phạm môi trường: Từ ngày 18/3/2024 đến ngày 17/4/2024 các lực lượng chức năng đã phát hiện 13 vụ vi phạm môi trường, lập biên bản xử lý vi phạm 7 vụ, phạt tiền 73,78 triệu đồng. So với tháng trước, tăng 2 vụ vi phạm đã phát hiện (tăng 18,18%), giảm 1 vụ vi phạm đã xử lý (giảm 12,5%), giảm 3.355,28 triệu đồng số tiền xử phạt. So với cùng kỳ tương đương giảm 8 vụ vi phạm đã phát hiện (giảm 38,1%), giảm 1 vụ vi phạm đã xử lý (giảm 12,5%), tăng 59,78 triệu đồng số tiền xử phạt. Lũy kế đến nay, toàn tỉnh phát hiện 56 vụ vi phạm môi trường, lập biên bản xử lý vi phạm 25 vụ, phạt tiền 3.712,18 triệu đồng. Lũy kế so cùng kỳ tăng 4 vụ vi phạm đã phát hiện (tăng 7,69%), giảm 1 vụ vi phạm đã xử lý (giảm 3,85%), tăng 3.658,18 triệu đồng số tiền xử phạt. 7.5. Các chính sách an sinh xã hội Trung tâm Dịch vụ việc làm đã tư vấn nghề - việc làm 1.793 lượt người; Giới thiệu việc làm cho 615 lao động đến các cơ quan, đơn vị trong và ngoài tỉnh thuộc các thành phần kinh tế. Trong tháng đã tiếp nhận 581 hồ sơ hưởng BHTN và có quyết định hưởng BHTN cho 451 trường hợp hưởng trợ cấp Bảo hiểm thất nghiệp. Triển khai công tác rà soát đối tượng Người có công, thân nhân liệt sĩ có khó khăn về nhà ở, có nhu cầu xây dựng mới nhà ở trong năm 2024. Giải ngân vốn dự án HOLT phát triển sinh kế cho 10 hộ gia đình, hỗ trợ khẩn cấp 01 trường hợp hỗ trợ bà mẹ đơn thân, tổng số tiền 82.363.000 đồng. Triển khai dự án Công trình nước sạch cho trẻ em do Quỹ Bảo trợ trẻ em Việt Nam tài trợ. Giới thiệu 05 hồ sơ đề nghị hỗ trợ kinh phí phẫu thuật tim cho đơn vị tài trợ Tổ chức Children Action, Tổ chức VinaCapital. Triển khai Chương trình “Học bổng Vingroup” năm học 2024-2025 do Quỹ Thiện Tâm tài trợ với 100 suất học bổng cho học sinh, sinh viên học giỏi, hiếu học nhưng hoàn cảnh gia đình và bản thân gặp khó khăn trên địa bàn tỉnh Phú Yên./. [1] Một số ngành công nghiệp cấp II có nhận được các hợp đồng ký kết để sản xuất nên chỉ số sản xuất công nghiệp tháng 4/2024 so với cùng kỳ năm trước như: Sản xuất trang phục tăng 20,3%; chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ, tre, nứa tăng 14,3%; sản xuất chế biến thực phẩm tăng 12,9%; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn tăng 12,6%; sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic tăng 10,5%; sản xuất giường, tủ, bàn, ghế tăng 9,6%; sản xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất tăng 4%; sản xuất thuốc hóa dược và dược liệu giảm 6,2%; các cơ quan chức năng thực hiện chặt chẽ Nghị định 100/2019/NĐ-CP quy định về xử phạt hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ đã ảnh hưởng đến tiêu thụ sản lượng bia của ngành sản xuất đồ uống giảm 13,7% so với cùng kỳ năm trước.[2] Một số nhóm ngành hàng tăng khá so tháng 4/2023 như: Nhiên liệu khác (trừ xăng dầu) tăng 19,1%; gỗ và vật liệu xây dựng tăng 15,2%; xăng, dầu các loại tăng 13,9%; doanh thu dịch vụ sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy và xe có động cơ khác tăng 13,6%; ô tô con (loại dưới 9 chỗ ngồi trở xuống) tăng 13,3% do lãi suất ngân hàng cho vay hạ thấp và sức mua tăng; Riêng có 01 nhóm ngành hàng giảm: đá quý, kim loại quý và sản phẩm, doanh thu giảm 2,3% do sức mua giảm, dù giá vàng đang ở mức tăng cao.[3] Trong đó: dịch vụ hành chính và dịch vụ hỗ trợ 40,4 tỷ đồng, tăng 65,4% so cùng kỳ năm trước, dịch vụ này tăng cao là do tháng này có nhiều sự kiện và ngày lễ lớn; dịch vụ giáo dục và đào tạo 13,1 tỷ đồng, tăng 6,1%; dịch vụ y tế và hoạt động trợ giúp xã hội 16 tỷ đồng, tăng 16,9%; dịch vụ nghệ thuật, vui chơi và giải trí 77,4 tỷ đồng, tăng 39,4%; dịch vụ sửa chữa máy vi tính, đồ dùng cá nhân và gia đình 22,8 tỷ đồng, tăng 25,7%; dịch vụ khác 53,6 tỷ đồng, tăng 25,3%. Riêng dịch vụ kinh doanh bất động sản 16,1 tỷ đồng, giảm 13,9%, do hoạt động kinh doanh bất động sản hiện nay đang gặp khó khăn, rất ít hợp đồng kinh doanh, mua bán.[4] Một số nhóm ngành hàng tăng khá so cùng kỳ năm trước như: gỗ và vật liệu xây dựng tăng 14,3%; lương thực, thực phẩm tăng 13,8%; nhiên liệu khác (trừ xăng dầu) tăng 12,1%; vật phẩm, văn hoá, giáo dục tăng 10,6%; xăng, dầu các loại tăng 10,3%. Riêng có 02 nhóm ngành hàng giảm, gồm nhóm ngành Ô tô con (loại dưới 9 chỗ ngồi trở xuống) giảm 20,6%; Đá quý, kim loại quý và sản phẩm giảm 6,1%, nguyên nhân là do sức mua thấp.[5] Trong đó: 40 hiện vật đồ mộc, 03 hiện vật kim loại; bảo quản 14 hiện vật đồ mộc thể khối lớn.
Tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Phú Yên tháng 3 và quý I năm 2024
- 29/03/2024 12:31
BÁO CÁOTình hình kinh tế - xã hội tháng 3 và quý I/2024 Đến thời điểm tháng 3/2024, hầu hết các tổ chức quốc tế đều hạ dự báo tăng trưởng kinh tế toàn cầu năm 2024. Đối với Việt Nam, trái ngược với xu hướng tăng trưởng thấp của năm trước, các tổ chức quốc tế đều dự báo tăng trưởng của Việt Nam năm 2024 tăng so với năm 2023. Cụ thể, WB dự báo tăng trưởng của Việt Nam đạt 5,5% trong năm 2024, cao hơn mức dự báo 4,7% của năm 2023; UN và AMRO đều nhận định tăng trưởng năm 2024 của Việt Nam đạt 6,0%, cao hơn mức dự báo 4,7% và 5,1% của năm 2023. Trong nước, tình hình kinh tế xã hội những tháng đầu năm diễn ra trong bối cảnh áp lực lạm phát giảm dần và thị trường lao động tương đối ổn định. Tăng trưởng tiêu dùng có tăng nhưng còn thấp. Việc mở cửa trở lại và lượng khách quốc tế phục hồi giúp tăng cường doanh thu từ du lịch, góp phần vào tăng trưởng xuất khẩu dịch vụ. Dự ước tổng sản phẩm trong nước (GDP) quý I/2024 ước tính tăng 5,66% so với cùng kỳ năm trước. Trên địa bàn tỉnh, tình hình kinh tế - xã hội quý I/2024 diễn ra cơ bản thuận lợi, các hoạt động kinh tế ổn định và tăng trưởng, tuy mức tăng chưa cao nhưng tăng hầu hết ở các ngành sản xuất kinh doanh; công tác đầu tư xây dựng cơ bản tiếp tục được tỉnh tập trung chỉ đạo quyết liệt, nhiều hoạt động văn hóa, nghệ thuật và ca nhạc do tỉnh, các địa phương, doanh nghiệp kinh doanh lưu trú trên địa bàn tỉnh tổ chức để phục vụ và thu hút khách du lịch được diễn ra; công tác hỗ trợ giải quyết khó khăn cho doanh nghiệp được chú trọng; công tác an sinh xã hội được đảm bảo. Dự ước tình hình thực hiện một số chỉ tiêu kinh tế - xã hội quý I/2024 như sau: I. PHÁT TRIỂN KINH TẾ 1. Tăng trưởng kinh tế Tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh (GRDP) theo giá so sánh năm 2010 dự ước quý I/2024 tăng 6,18%([1]) so với cùng kỳ năm trước, xếp vị thứ 23 so với cả nước; thứ 8/14 tỉnh, thành phố khu vực miền Trung([2]) từ Thanh Hóa đến Bình Thuận, nhờ tình hình kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh diễn ra cơ bản thuận lợi, các hoạt động kinh tế ổn định và tăng trưởng, tuy mức tăng chưa cao nhưng tăng hầu hết ở các ngành sản xuất kinh doanh so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản tăng 4,16%, đóng góp 0,74 điểm phần trăm; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 9,72%, đóng góp 2,95 điểm phần trăm; khu vực dịch vụ tăng 5,26%, đóng góp 2,46 điểm phần trăm; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm tăng 0,57% so với cùng kỳ năm trước, đóng góp 0,03 điểm phần trăm vào mức tăng trưởng chung. Chia ra: - Khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản tăng 4,16% (nông nghiệp tăng 4,25%; lâm nghiệp tăng 18,36% và thuỷ sản tăng 3%) hoạt động sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản cơ bản phát triển ổn định; tình hình dịch bệnh cây trồng, vật nuôi, thủy sản nuôi được kiểm soát chặt chẽ; thị trường tiêu thụ nông sản tương đối thuận lợi, giá bán một số sản phẩm chủ lực (lúa, mía, sắn,…) tăng so với cùng kỳ năm trước, giá bán gỗ tăng nên khai thác gỗ rừng trồng tăng 45,4%, sản lượng thủy sản nuôi trồng tăng 11,9%, sản lượng thủy sản khai thác tăng 4,1%;... - Khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 9,72%, trong đó: + Công nghiệp tăng 8,13%([3]), điểm sáng tăng trưởng chính là ngành công nghiệp chế biến chế tạo (chiếm 56,24% của khu vực công nghiệp), tăng 8,4% so với cùng kỳ năm trước. Hoạt động sản xuất công nghiệp giữ đà tăng trưởng khá so với cùng kỳ năm trước nhờ tiếp tục tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, thực hiện có hiệu quả chương trình hành động và phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh. Doanh nghiệp, cơ sở sản xuất ngành công nghiệp đã nhận các đơn đặt hàng ký kết ngay từ đầu năm 2024 của các đối tác, đồng thời doanh nghiệp thay đổi mẫu mã, mở rộng thị trường tiêu thụ: Sản phẩm đường kết tinh các loại ước tăng 21,8%; phân bón các loại tăng 18,9%; dăm gỗ các loại tăng 16,2%; nhân hạt điều tăng 10,5%; linh kiện điện tử các loại tăng 9,8%; hải sản chế biến các loại tăng 8,2%; viên nén gỗ các loại tăng 6,3%; nước mắm các loại tăng 4,1%… Các ngành cấp 2 có mức tăng trưởng cao hơn mức tăng chung so với cùng kỳ năm trước như: Sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác tăng 29,05%; sản xuất chế biến thực phẩm tăng 17,27%; chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ tre nứa tăng 7,76%; Sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hoà không khí tăng 7,74%; ... + Xây dựng tăng 14,53% nhờ tiếp tục tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong thực hiện các dự án của tỉnh, đặc biệt là công tác giải phóng mặt bằng, bồi thường hỗ trợ tái định cư, kiểm soát giá nguyên vật liệu; bảo đảm vật liệu san lấp cho các công trình hạ tầng trên địa bàn tỉnh. Dự án trọng điểm quốc gia, dự án công trình đường bộ cao tốc Bắc - Nam phía Đông giai đoạn 2021-2025 qua tỉnh Phú Yên, đến nay đã bàn giao mặt bằng cho Chủ đầu tư đạt trên 98,12% diện tích. Quý I/2024 ước thực hiện 1,748,1 tỷ đồng, tăng 16,7% so với cùng kỳ năm trước (trong đó: Dự án thành phần đoạn Quy Nhơn- Chí Thạnh ước đạt 372,6 tỷ đồng bằng 70,1%; Chí Thạnh - Vân Phong ước đạt 429,3 tỷ đồng, gấp 26,4 lần). - Khu vực dịch vụ tăng 5,26% tuy mức tăng chưa cao nhưng hầu hết tất cả các ngành đều tăng trưởng dương, các ngành hoạt động kinh doanh thương mại và dịch vụ đều tăng nhờ tình hình thị trường hàng hóa và sức mua của người dân trên địa bàn duy trì ổn định; các hoạt động dịch vụ lưu trú, dịch vụ ăn uống, du lịch lữ hành và các dịch vụ khác diễn ra nhộn nhịp do nhu cầu sử dụng của người dân trong tỉnh và khách du lịch đến từ ngoài tỉnh nhờ trên địa bàn tỉnh đã, đang và sẽ diễn ra nhiều sự kiện với số lượng lớn đại biểu, khách mời, huấn luyện viên, vận động viên, phục vụ hậu cần cho các đoàn và người thân đi theo về tham dự, như: Hội nghị công bố quy hoạch tỉnh Phú Yên thời kỳ 2021 - 2023, tầm nhìn đến 2050; giải vô địch quốc gia Marathon và cự ly dài Báo Tiền Phong lần thứ 65 năm 2024 tại Phú Yên: Nghệ thuật vui chơi và giải trí tăng 13,2%; vận tải kho bãi tăng 9,48%; dịch vụ lưu trú và ăn uống tăng 9,04%; hoạt động dịch vụ khác tăng 8,25%; bán buôn, bán lẻ, sửa chữa ô tô, mô tô xe máy tăng 6,27%; hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm tăng 5,27%; y tế và hoạt động trợ giúp xã hội tăng 3,5%; giáo dục đào tạo tăng 1,29%;... - Thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm tăng 0,57% tăng thấp do trên địa bàn tỉnh hiện nay chưa có nhiều doanh nghiệp chủ lực, quy mô lớn để tạo đột phá về thu ngân sách, trong năm 2024 tiếp tục áp dụng chính sách điều chỉnh mức thuế bảo vệ môi trường với xăng, dầu, mỡ nhờn nhằm góp phần bình ổn giá xăng dầu trong nước. Ban Chỉ đạo Chống thất thu và đôn đốc thu nộp NSNN tỉnh đã ban hành Kế hoạch số 01/KH-BCĐ ngày 07/3/2024 về Kế hoạch chống thất thu năm 2024 do vậy, từ đầu năm đến nay kết quả thu NSNN trên địa bàn tỉnh đã đạt kết quả tích cực. Cơ cấu tổng sản phẩm quý I/ 2024 theo giá hiện hành, tỷ trọng nông lâm nghiệp - thủy sản chiếm 18,23%, giảm 0,66 điểm phần trăm; công nghiệp - xây dựng chiếm 30,43%, tăng 0,64 điểm phần trăm; dịch vụ chiếm 46,59%, tăng 0,23 điểm phần trăm; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 4,75% trong tổng số, giảm 0,22 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước. 2. Tình hình sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản 2.1. Nông nghiệp - Lúa vụ đông xuân: Tính đến ngày 14/03/2024, toàn tỉnh đã gieo cấy được 26.710 ha lúa đông xuân, giảm 0,05% (giảm 13,3 ha) so với diện tích gieo trồng lúa vụ đông xuân năm trước. Lúa chính vụ đang giai đoạn sinh trưởng làm đòng – chín sữa. Hiện nay đã thu hoạch 120 ha tại thị xã Sông Cầu (90 ha) và huyện Tuy An (30 ha), năng suất dự ước 52 tạ/ha. Các giống lúa chủ yếu gieo sạ: Đài thơm 8, BĐR27, BĐR999, ĐV108, ML232, PY10,… - Lũy kế trong quý I/2024, các địa phương trên toàn tỉnh đã gieo trồng được 1.550 ha ngô, giảm 0,8%; mía 12.602,5 ha, giảm 4,1%; rau các loại 3.280,6 ha, tăng 1%; đậu các loại 1.244,5 ha, giảm 0,9%,... so cùng kỳ năm trước. Sản lượng một số cây trồng trên địa bàn tỉnh như sau: Ngô 2.720 tấn, tăng 2,4%; sắn 95.322 tấn, tăng 0,8%; rau các loại 41.150 tấn, tăng 4,7% so với cùng kỳ năm trước. - Sản lượng thu hoạch một số cây công nghiệp lâu năm: Hồ tiêu 424 tấn, giảm 1,8%; cao su 1.275 tấn, tăng 4,1%; điều 42 tấn, giảm 3,9% so với cùng kỳ năm trước. Sản lượng một số loại cây ăn quả chủ yếu: Chuối 6.523 tấn, tăng 3,8%; dứa 4.511 tấn, tăng 2,4%; xoài 130,1 tấn tăng 1,8% so với cùng kỳ năm trước. - Chăn nuôi: Toàn tỉnh hiện có 126 trang trại chăn nuôi đang hoạt động, trong đó có 10 trang trại quy mô lớn, 18 trang trại chăn nuôi bò, trâu; 49 trang trại lợn; 32 trang trại gà;... Ước tính số lượng đàn trâu, bò giảm 2,6% (đàn trâu giảm 7,9%; đàn bò giảm 2,5%); đàn lợn giảm 3,5%; đàn gia cầm tăng 2,1%, trong đó: Đàn gà tăng 2,1% so với cùng kỳ năm trước. Đàn trâu giảm là do giá thịt hơi không tăng, đầu tư ít lãi nên người nông dân chăn nuôi có hướng giảm số lượng đầu con mà tăng trọng lượng, đàn lợn giảm nguyên nhân là do một số trang trại chăn nuôi tạm nghỉ để hoàn chỉnh các thủ tục về đất đai, môi trường và một số trang trại chăn nuôi chủ động giảm quy mô chăn nuôi để đảm bảo môi trường. + Sản lượng thịt hơi gia súc xuất chuồng 12.309 tấn, tăng 2,8% so cùng kỳ năm trước, bao gồm: Sản lượng thịt trâu 89 tấn, tăng 4,5%; sản lượng thịt bò 4.700 tấn, tăng 3,3%; sản lượng thịt lợn 7.250 tấn, tăng 2,4%. Sản lượng thịt gia cầm đạt 5.223 tấn, tăng 4,8% so cùng kỳ năm trước, trong đó: Sản lượng thịt gà 4.500 tấn tăng 4,8%; sản lượng trứng gia cầm đạt gần 51 triệu quả, tăng 4,6%, trong đó sản lượng trứng gà 13,3 triệu quả, tăng 3,4%. 2.2. Lâm nghiệp Ước tính trong tháng 03, sản lượng gỗ khai thác 24.500 m3, tăng 3,4%. Dự ước quý I/2024, diện tích rừng trồng mới tập trung 301 ha, tăng 6,7%, sản lượng gỗ khai thác 46.519 m3, tăng 45,4% do giá gỗ nguyên liệu giấy tăng nên các hộ trồng rừng tranh thủ thu hoạch những diện tích rừng gần đến thời gian thu hoạch. Tổ chức Lễ phát động “Tết trồng cây, đời đời nhớ ơn Bác Hồ” với quy mô: Cấp tỉnh vào ngày 20/02/2024 tại Trường Chính trị Phú Yên trồng 30 cây giáng hương và tre; cấp huyện 13.144 cây gồm me tây, thông, dầu rái, sao đen, giáng hương, muồng... Các địa phương trên địa bàn toàn tỉnh triển khai hưởng ứng phong trào. Ngoài ra, công tác phòng cháy chữa cháy rừng đang được quan tâm, chú ý. 2.3. Thuỷ sản - Trong tháng diện tích thả nuôi dự ước 623 ha, tăng 2,3% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Cá 20 ha, bằng 100% (chủ yếu thả nuôi cá nước ngọt); tôm 482 ha, tăng 2,8%; thủy sản các loại 121 ha, tăng 0,8% so cùng kỳ năm trước. Ước tính quý I, diện tích nuôi trồng 1.156 ha, tăng 1,8%, trong đó: Cá 152 ha, tăng 0,7%; tôm 841 ha, tăng 2,1%, thủy sản các loại 163 ha, tăng 1,2% so với cùng kỳ năm trước. - Sản xuất giống tôm thẻ Post 15 trong tháng đạt 25 triệu con, tăng 4,2% so với cùng kỳ năm trước. Ước tính quý I, sản xuất được 55 triệu con giống tăng 3,8%, tăng chủ yếu các công ty sản xuất giống của thị xã Sông Cầu và huyện Đông Hòa. - Sản lượng thủy sản trong tháng ước tính 8.108 tấn, tăng 4,2% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Sản lượng thuỷ sản khai thác 7.223 tấn, tăng 3,4%, (trong tổng sản lượng cá khai thác, cá ngừ đại dương 450 tấn, chiếm 7,1% và tăng 3,4%). Sản lượng thủy sản nuôi trồng 885 tấn, tăng 10,8%. - Ước tính trong quý I, sản lượng thủy sản ước tính 18.494 tấn, tăng 4,5% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Cá 14.388 tấn, tăng 0,3%; tôm 1.103 tấn, tăng 4,9%; thủy sản khác 3.003 tấn, tăng 31,3%. Chia ra: + Sản lượng thuỷ sản khai thác 17.409 tấn, tăng 4,1%, trong đó: Cá các loại 14.325 tấn, tăng 0,2%; tôm 81 tấn, giảm 42,6%; thủy sản các loại 3.003 tấn, tăng 31,1%. Trong tổng sản lượng cá khai thác, cá ngừ đại dương 1.008 tấn, chiếm 7% và tăng 2,5%. + Sản lượng thủy sản nuôi trồng 1.085 tấn, tăng 11,9%, trong đó: Cá 63 tấn, tăng 5%; tôm 1.022 tấn, tăng 12,3%. 3. Sản xuất công nghiệp Hoạt động sản xuất công nghiệp giữ đà tăng trưởng khá so với cùng kỳ năm trước nhờ tiếp tục tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, thực hiện có hiệu quả chương trình hành động và phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh. Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tháng 3/2024 ước tính tăng 7,8% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung quý I/2024 chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tăng 8,6%([4]) so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Ngành công nghiệp khai khoáng tăng 6,1%; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 8,8%; ngành sản xuất, phân phối điện, hơi nước tăng 6,5%; ngành cung cấp nước, quản lý và xử lý rác thải tăng 7,6%. Giá trị sản xuất công nghiệp (theo giá so sánh 2010) quý I/2024 ước tính 6.686,1 tỷ đồng tăng 7,9% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Ngành công nghiệp khai khoáng 75,5 tỷ đồng tăng 5,1%; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo 5.744,6 tỷ đồng tăng 8,2%; sản xuất, phân phối điện, hơi nước 822,6 tỷ đồng tăng 6,4%; cung cấp nước, quản lý và xử lý rác thải 43,4 tỷ đồng tăng 6,6%. Tính chung quý I/2024 một số sản phẩm sản xuất tăng so với cùng kỳ năm trước: Đường kết tinh các loại 84.828 tấn tăng 21,8%; phân bón các loại 12.172 tấn tăng 18,9%; dăm gỗ các loại 27.647 tấn tăng 16,2%; nhân hạt điều 4.128 tấn tăng 10,5%; linh kiện điện tử các loại 212 triệu sản phẩm tăng 9,8%; hải sản chế biến các loại 3.520 tấn tăng 8,2%; viên nén gỗ các loại 2.628 m3 tăng 6,3%; đá xây dựng các loại 210.861 m3, tăng 5%; điện sản xuất 540,2 triệu kwh, tăng 6,2%; điện thương phẩm ước đạt 237,2 triệu kwh, tăng 5,3% so với cùng kỳ năm trước. Bên cạnh đó với sự cạnh tranh gay gắt sản phẩm trên thị trường, chi phí nguyên liệu đầu vào tăng cao và cơ quan chức năng thực hiện chặt chẽ Nghị định 100/NĐ-CP quy định về xử phạt hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt nên các sản phẩm sản xuất giảm như sau: Tinh bột sắn 34.432 tấn giảm 11,2%; xi măng các loại 10.911 tấn giảm 22,7%; bia các loại 10 triệu lít giảm 9,3%; thuốc viên các loại 507 triệu sản phẩm giảm 9,6%. 4. Tình hình đăng ký kinh doanh của doanh nghiệp Tính từ đầu năm đến ngày 01/3/2024, doanh nghiệp đăng ký thành lập mới trên địa bàn tỉnh có 73 doanh nghiệp([5]), giảm 13,1% so với cùng kỳ năm trước với tổng số vốn đăng ký kinh doanh 271,7 tỷ đồng giảm 81,9%. Vốn đăng ký bình quân 01 doanh nghiệp đạt 3,7 tỷ đồng/doanh nghiệp. Số doanh nghiệp quay trở lại hoạt động là 08 doanh nghiệp tăng 60% so với cùng kỳ năm trước. Số doanh nghiệp phải tạm ngừng hoạt động sản xuất kinh doanh 143 doanh nghiệp, tăng 34,4% và có 22 doanh nghiệp sản xuất kinh doanh không hiệu quả đã hoàn tất thủ tục giải thể, tăng 29,4% so với cùng kỳ năm trước. 5. Thương mại, dịch vụ và du lịch Trong quý I/2024, các doanh nghiệp và cơ sở kinh doanh cá thể hoạt động ổn định, hàng hóa lưu thông thông suốt, nhiều chương trình khuyến mãi hấp dẫn, giá cả hợp lý với nhiều mặt hàng giảm giá nhằm kích cầu tiêu dùng nhân dịp Tết Nguyên đán Giáp Thìn năm 2024, ngày Lễ Quốc tế Phụ nữ 08/3. Đồng thời trên địa bàn tỉnh đã, đang và sẽ diễn ra nhiều sự kiện như: Hội nghị công bố quy hoạch tỉnh Phú Yên thời kỳ 2021 - 2023, tầm nhìn đến 2050; giải vô địch quốc gia Marathon và cự ly dài Báo Tiền Phong lần thứ 65 năm 2024 tại Phú Yên. Bên cạnh đó, tỉnh đã tổ chức chương trình đưa hàng Việt về miền núi; các hoạt động hưởng ứng Ngày Quyền của người tiêu dùng Việt Nam 15/3 nên tình hình thị trường hàng hóa và sức mua của người dân trên địa bàn duy trì ổn định; các hoạt động dịch vụ lưu trú, dịch vụ ăn uống, du lịch lữ hành và các dịch vụ khác diễn ra nhộn nhịp do nhu cầu sử dụng của người dân trong tỉnh và khách du lịch đến từ ngoài tỉnh tăng. Tình hình vận chuyển hành khách và các loại vật tư, hàng hóa đều tăng so cùng kỳ năm trước, nhu cầu đi lại và vận chuyển hàng hóa, dịch vụ của người dân tăng cao. Hiện nay người dân đang bước vào mùa vụ thu hoạch nông sản, lâm sản, các loại hàng hóa khác, công trình xây dựng tiếp tục được triển khai, khởi công với số lượng nhiều, khối lượng lớn, do đó quá trình vận chuyển sản phẩm nông lâm sản tiêu thụ và nguyên vật liệu xây dựng tăng. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng 3/2024 ước tính 4.268,6 tỷ đồng, tăng 0,2% so với tháng trước và tăng 10,2% so với cùng kỳ năm trước; doanh thu bán buôn hàng hóa 2.219,3 tỷ đồng, tăng 10%; doanh thu ngành vận tải, kho bãi 406,1 tỷ đồng, tăng 13% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung quý I/2024, quý I/2024, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng ước tính 13.113,7 tỷ đồng, tăng 12% so với cùng kỳ năm trước; doanh thu bán buôn hàng hóa 6.657,6 tỷ đồng, tăng 10,8%([6]); doanh thu ngành vận tải, kho bãi 1.227 tỷ đồng, tăng 10%. 5.1. Bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng Trong tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng 3/2024: Ước tính tổng mức bán lẻ hàng hóa 3.426,8 tỷ đồng, tăng 1,6% so với tháng trước và tăng 9% so với cùng kỳ năm trước([7]);doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống và du lịch lữ hành 630,3 tỷ đồng, tăng 1,1% so với tháng trước, tăng 16,6% so với cùng kỳ năm trước (doanh thu dịch vụ lưu trú 67,5 tỷ đồng, giảm 2,3% và tăng 36,6%; doanh thu dịch vụ ăn uống 561,3 tỷ đồng, tăng 1,2% và tăng 14,3%; doanh thu du lịch lữ hành 1,5 tỷ đồng, gấp 4,9 lần và gấp 11 lần); doanh thu hoạt động dịch vụ khác 211,5 tỷ đồng, giảm 19,3% so với tháng trước và tăng 12,5% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung quý I/2024, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng ước tính 13.113,7 tỷ đồng, tăng 12% so với cùng kỳ năm trước([8]). Trong đó: Tổng mức bán lẻ hàng hóa 10.437,8 tỷ đồng, tăng 10,4%; doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống và du lịch lữ hành 1.944,6 tỷ đồng, tăng 14,8% (doanh thu dịch vụ lưu trú 194,7 tỷ đồng, tăng 33,5%; doanh thu dịch vụ ăn uống 1.748 tỷ đồng, tăng 13%; doanh thu du lịch lữ hành 1,9 tỷ đồng, tăng 89,7%); doanh thu dịch vụ khác 731,3 tỷ đồng, tăng 28,8%([9]). Trong quý I/2024, nhiều nơi trên địa bàn tỉnh hoạt động văn hóa, nghệ thuật và ca nhạc do tỉnh, các địa phương trên địa bàn tỉnh tổ chức; nhiều hoạt động do các doanh nghiệp kinh doanh lưu trú tổ chức tại đơn vị để phục vụ và thu hút khách du lịch được diễn ra trong dịp Tết Nguyên đán Giáp Thìn năm 2024. Ước tính quý I/2024 tổng lượt khách du lịch đến Phú Yên khoảng 882.500 lượt, tăng 22,4% so với cùng kỳ năm trước (trong đó khách quốc tế 7.870 lượt, tăng 66,2%). Tổng lượt khách do cơ sở lưu trú phục vụ quý I/2024 ước tính 552.152 lượt, tăng 20% so với cùng kỳ năm trước (trong đó khách quốc tế 5.956 lượt, tăng 64,5%). Tổng thu từ khách du lịch ước tính 1.615,9 tỷ đồng, tăng 62,3%. Đến nay, toàn tỉnh có 440 cơ sở kinh doanh lưu trú du lịch (tăng 30 cơ sở so với quý I/2023); trong đó có 01 khách sạn 5 sao, 01 khách sạn 4 sao, 05 khách sạn 3 sao, 04 khách sạn 2 sao, 31 khách sạn 1 sao, 83 khách sạn, 91 nhà nghỉ và 26 homestay đáp ứng đủ điều kiện tối thiểu kinh doanh lưu trú du lịch. Tổng số buồng lưu trú du lịch hiện có khoảng 7.700 buồng, trong đó có khoảng 670 buồng đạt tiêu chuẩn 3 - 5 sao, các khu du lịch vui chơi giải trí được cải tạo nâng cấp để phục vụ tốt nhu cầu vui chơi giải trí của du khách khi đến Phú Yên. 5.2. Vận tải hành khách, hàng hóa Công tác quản lý giao thông vận tải tiếp tục được tăng cường, đẩy mạnh. Duy trì kiểm soát tải trọng phương tiện, đồng thời tăng cường thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm trong hoạt động vận tải, nhất là vận tải khách, đảm bảo trật tự an toàn giao thông. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, nâng cao hiệu quả khai thác dữ liệu trên thiết bị giám sát hành trình để xử lý chủ phương tiện lái xe vi phạm pháp luật, phục vụ tốt nhu cầu đi lại và vận chuyển hàng hóa của Nhân dân. Hoạt động vận tải hành khách được đảm bảo, không để ứ đọng khách; vận tải hàng hóa phục vụ cho sản xuất và tiêu dùng trên thị trường được lưu thông thông suốt kể cả trong dịp Tết Nguyên đán. Tổng doanh thu ngành vận tải tháng 3/2024 ước tính 406,1 tỷ đồng, tăng 13% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: Doanh thu vận tải hành khách 76,3 tỷ đồng, tăng 2,2%; doanh thu vận tải hàng hóa 327,6 tỷ đồng, tăng 17,8%; kho bãi và dịch vụ hỗ trợ vận tải 1,5 tỷ đồng, bằng 25,6% so cùng kỳ năm trước là do nhu cầu về các dịch vụ quản lý trông giữ tại các bãi, điểm đỗ ô tô, xe máy, các phương tiện đường bộ, bốc xếp hàng hóa, lai dắt cứu hộ đường bộ... giảm; bưu chính, chuyển phát 0,7 tỷ đồng, giảm 19,1%. Tính chung quý I/2024, tổng doanh thu ngành vận tải ước tính 1.227 tỷ đồng, tăng 10%; trong đó: Doanh thu vận tải hành khách 221,9 tỷ đồng, tăng 23,6%; doanh thu vận tải hàng hóa 998 tỷ đồng, tăng 10,6%; kho bãi và dịch vụ hỗ trợ vận tải 4,5 tỷ đồng, bằng 14,9%; dịch vụ bưu chính chuyển phát 2,6 tỷ đồng, giảm 7,9%. Tháng 3/2024, khối lượng hành khách vận chuyển đường bộ ước tính 785,9 ngàn lượt khách, tăng 4,2%; luân chuyển 63.941,4 ngàn lượt khách.Km, tăng 10,1%. Khối lượng hàng hóa vận chuyển đường bộ 933 ngàn tấn, tăng 4,2%; luân chuyển 77.160,3 ngàn tấn.km, tăng 11,1% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung quý I/2024, khối lượng hành khách vận chuyển 2.600,2 ngàn lượt khách, tăng 4,8%; luân chuyển 197.192,9 ngàn lượt khách.Km, tăng 8,3%. Khối lượng hàng hóa vận chuyển 2.982,9 ngàn tấn, tăng 4,9%; luân chuyển 232.890,3 ngàn tấn.km, tăng 12,3%. Vận tải hàng không: Lượng hành khách qua Cảng hàng không Tuy Hòa trong quý đạt 81.509 lượt khách, giảm 21,82% so với cùng kỳ năm trước. Vận tải đường sắt: Lượng hành khách lên tàu tại các Ga trên địa bàn tỉnh trong quý đạt 29.964 lượt khách, tăng 19,19% so với cùng kỳ năm trước. Vận tải đường biển: Lượng hàng hóa thông qua cảng Vũng Rô trong quý đạt 25.000 tấn, giảm 32,4% so với cùng kỳ năm trước. Luồng tuyến vận tải: Hiện có 37 tuyến vận tải khách liên tỉnh, 05 tuyến nội tỉnh, 04 tuyến vận tải khách công cộng bằng xe buýt; tổng số phương tiện vận tải hành khách 1.101 xe/13.375 ghế (trong đó: số lượng xe hoạt động tuyến cố định 87 xe/2.597 ghế, hợp đồng 417 xe/6.668 ghế, xe buýt 21 xe/973 ghế, xe taxi 562 xe/2.913 ghế (5 đơn vị), 14 xe trung chuyển/224 ghế); tổng số phương tiện vận tải hàng hóa (đầu kéo, container, xe tải) đã cấp phép vận tải 3.360 xe/30.110 tấn. 5.3. Xuất, nhập khẩu Tổng kim ngạch xuất khẩu Quý I ước thực hiện đạt 71,6 triệu USD, đạt 25,1% kế hoạch năm, tăng 28,7% so với cùng kỳ năm trước. Một số mặt hàng xuất khẩu tăng như: Nhân hạt điều đạt 0,6 triệu USD, tăng 74,9%; sản phẩm kính 2,29 triệu USD, tăng 68,8%; sản phẩm gỗ đạt 7,38 triệu USD, tăng 48,7%; hải sản các loại 34,65 triệu USD, tăng 46,5%; linh kiện điện tử 9,77 triệu USD, tăng 29,8%; quần áo may sẵn 14,68 triệu USD, tăng 14,8%. Kim ngạch nhập khẩu Quý I ước thực hiện 33,3 triệu USD, đạt 17,5% kế hoạch năm, tăng 23,5% so với cùng kỳ năm trước. Một số mặt hàng nhập khẩu tăng như: Hóa chất 5,5 triệu USD, tăng 36,6%; vải và phụ liệu may mặc 6,7 triệu USD, tăng 35,3%; máy móc thiết bị phụ tùng 6,9 triệu USD, tăng 27,2%. II. ỔN ĐỊNH KINH TẾ VĨ MÔ 1. Giá cả 1.1. Chỉ số giá tiêu dùng Chỉ số giá tiêu dùng tháng 3/2024 giảm 0,27% so tháng trước, trong đó 8/11 nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá giảm, chủ yếu do nhu cầu mua sắm, sử dụng dịch vụ sau Tết Nguyên đán giảm và nguồn cung dồi dào (các loại rau, củ, quả): Nhóm may mặc, mũ nón, giày dép giảm 1,4% (tác động làm CPI chung giảm 0,07%); bưu chính viễn thông giảm 1,05%; hàng ăn và dịch vụ ăn uống giảm 0,85% (tác động làm CPI chung giảm 0,28%); hàng hóa và dịch vụ khác giảm 0,83%; giao thông giảm 0,2%; văn hóa, giải trí và du lịch giảm 0,2%; thiết bị và đồ dùng gia đình giảm 0,03%. Các nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá tăng: Nhà ở, điện nước, chất đốt và VLXD tăng 0,96% (tác động làm CPI chung tăng 0,16%), do nhu cầu sử dụng tăng và giá gas thế giới tăng; giáo dục tăng 0,24% chủ yếu vì dịch vụ giáo dục mầm non tư thục tăng 1,47% do chi phí thuê công tăng; thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,02%. Nhóm có giá không đổi so với tháng trước là nhóm đồ uống và thuốc lá. Chỉ số giá tiêu dùng tháng 3/2024 tăng 3,89% so cùng kỳ năm trước: Nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 3,48% (tác động làm CPI chung tăng 1,17%); (trong đó: Lương thực tăng 15,42%, thực phẩm tăng 1,87%, ăn uống ngoài gia đình tăng 2,51%); nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 3,48%; nhóm may mặc, mũ nón, giầy dép tăng 2,58%; nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 7,0%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 1,7%; thuốc và dịch vụ y tế tăng 10,01%; giao thông tăng 1,18%; bưu chính viễn thông tăng 0,43%; giáo dục tăng 1,71%; văn hóa, giải trí và du lịch tăng 1,54%; hàng hóa và dịch vụ khác tăng 5,94%. Chỉ số giá tiêu dùng tháng 3/2024 tăng 1,3% so tháng 12 năm trước: Nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 1,29% (trong đó: Lương thực tăng 3,32%, thực phẩm tăng 0,71%; ăn uống ngoài gia đình tăng 1,88%); nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 0,74%; nhóm may mặc, mũ nón, giầy dép tăng 0,4%; nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 2,08%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,57%; thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,1%; giao thông tăng 3,52%; bưu chính viễn thông tăng 0,74%; giáo dục tăng 0,23%; văn hóa, giải trí và du lịch tăng 0,39%; hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,84%. Chỉ số giá tiêu dùng tỉnh Phú Yên quý I/2024 tăng 1,41% so quý trước (quý IV/2023), trong đó 11/11 nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá tăng: Nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng 6,37%([10]) (tác động làm CPI chung tăng 0,39%); nhà ở, điện nước, chất đốt và VLXD tăng 1,58% do giá công thuê tăng và giá gas thế giới tăng; hàng hóa và dịch vụ khác tăng 1,42%; đồ uống và thuốc lá tăng 1,33%; may mặc, mũ nón, giày dép tăng 1,31%; giao thông tăng 1,24%; hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 1,07%; bưu chính viễn thông tăng 0,86%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,61%; văn hóa, giải trí và du lịch tăng 0,55%; giáo dục tăng 0,11%. Chỉ số giá tiêu dùng tỉnh Phú Yên quý I/2024 tăng 2,01% so cùng kỳ năm trước (quý I/2023), trong đó có 7 nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá tăng hơn chỉ số giá chung: Thuốc và dịch vụ y tế tăng 10,06%; hàng hóa và dịch vụ khác tăng 6,56%; nhà ở, điện nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 6,51%; may mặc, mũ nón và giày dép tăng 3,05%; văn hoá, giải trí và du lịch tăng 2,65%; hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 2,62%; Đồ uống và thuốc lá tăng 2,62%. 1.2. Chỉ số giá vàng và đô la Mỹ Trong tháng 3/2024, giá vàng 99,99 bình quân là 6.630.000 đồng/chỉ; so tháng trước tăng 4,43%; so cùng tháng năm trước tăng 22,3%; so tháng 12 năm trước tăng 8,8%; so kỳ gốc 2019 tăng 70,31%. Giá Đô la Mỹ bình quân là 24.840 VND/USD; so tháng trước tăng 0,86%; so cùng tháng năm trước tăng 4,13%; so tháng 12 năm trước tăng 1,72%; so kỳ gốc 2019 tăng 6,69%. Quý I/2024, giá vàng 99,99 bình quân 6.406.000 đồng/chỉ; so quý trước tăng 8,66%; so cùng kỳ năm trước tăng 17,91%. Giá Đô la Mỹ tại NHNN Việt Nam bình quân 24.669 VND/USD; so quý trước tăng 0,66%; so cùng kỳ năm trước tăng 3,85%. 1.3. Chỉ số giá sản xuất hàng nông, lâm nghiệp và thủy sản Chỉ số giá sản xuất sản phẩm nông, lâm nghiệp và thủy sản quý I/2024 tăng 2,46% so với quý trước, tăng do yếu tố mùa vụ (nhiều loại nông sản không phải mùa vụ thu hoạch nên nguồn cung giảm), thời tiết (ngư trường khai thác không thuận lợi, sản lượng đánh bắt giảm), nhu cầu tiêu dùng tăng, chi phí sản xuất tăng nên giá bán ra và giá thu mua để sản xuất tăng. Cụ thể tăng ở các nhóm mặt hàng như: Sản phẩm từ cây hàng năm tăng 5,08%; Sản phẩm từ cây lâu năm tăng 6,09%; dịch vụ nông nghiệp tăng 1,36%; Sản phẩm gỗ khai thác tăng 4,84%; sản phẩm thủy sản khai thác tăng 1,68%; sản phẩm thủy sản nuôi trồng tăng 0,97%. 1.4. Chỉ số giá sản xuất hàng công nghiệp Chỉ số giá sản xuất công nghiệp quý I/2024 tăng 0,41% so với quý trước. Trong đó: Chỉ số giá sản xuất sản phẩm khai khoáng tăng 0,14% so với quý trước; chỉ số giá nhóm ngành công nghiệp chế biến chế tạo tăng 1,01%; chỉ số giá sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí giảm 4,16%; Chỉ số giá sản xuất cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải giảm 0,55%. Nguyên nhân tăng là do giá cả các yếu tố nguyên vật liệu đầu vào tăng nhất là ảnh hưởng từ giá và thị trường nhập khẩu, giá Đô la tăng, chi phí sản xuất, nhu cầu tiêu dùng sản phẩm tăng và giảm là do nguồn cung sản phẩm dồi dào, do một số công ty muốn kích cầu tiêu dùng, cạnh tranh giảm giá sản phẩm. 2. Đầu tư, xây dựng Năm 2024 tỉnh Phú Yên tập trung triển khai thực hiện hiệu quả Chương trình hành động số 37-CTr/TU ngày 29/02/2024 của Tỉnh ủy triển khai thực hiện các nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu phát triển kinh tế - xã hội năm 2024. Công tác đầu tư xây dựng cơ bản được tập trung chỉ đạo quyết liệt ngay từ đầu năm, tập trung thi công các dự án, công trình chuyển tiếp từ năm trước và khẩn trương hoàn thiện các thủ tục để tổ chức khởi công các dự án mới theo Kế hoạch vốn năm 2024 đã giao; tiếp tục tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong thực hiện các dự án của tỉnh, đặc biệt là công tác giải phóng mặt bằng, bồi thường hỗ trợ tái định cư, kiểm soát giá nguyên vật liệu; bảo đảm vật liệu san lấp cho các công trình hạ tầng trên địa bàn tỉnh. Dự án trọng điểm quốc gia, dự án công trình đường bộ cao tốc Bắc - Nam phía Đông giai đoạn 2021-2025 qua tỉnh Phú Yên, đến nay đã bàn giao mặt bằng cho Chủ đầu tư đạt trên 98,12% diện tích. 2.1. Đầu tư Vốn đầu tư thực hiện trên địa bàn theo giá hiện hành quý I/2024 ước tính 4.309,9 tỷ đồng giảm 28% so quý trước và giảm 3% so cùng kỳ năm trước, phân theo nguồn vốn: Vốn nhà nước trên địa bàn 2.267,3 tỷ đồng([11]), tăng 14,6%; vốn đầu tư khu vực ngoài nhà nước 2.024,7 tỷ đồng giảm 16,1%; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 17,9 tỷ đồng giảm 65,8%. Dự ước trong quý I/2024 trên địa bàn tỉnh không có dự án đầu tư nước ngoài được cấp phép mới. Vốn đầu tư thực hiện thuộc nguồn vốn ngân sách Nhà nước do địa phương quản lý tháng 3/2024 ước thực hiện 225,3 tỷ đồng, giảm 14,5% so cùng kỳ năm trước. Trong đó, vốn ngân sách Nhà nước cấp tỉnh 110,3 tỷ đồng, giảm 39,7%; vốn ngân sách nhà nước cấp huyện 114,3 tỷ đồng, tăng 43%; vốn ngân sách nhà nước cấp xã 0,7 tỷ đồng, giảm 22,6%; Tính chung quý I/2024 vốn đầu tư thực hiện thuộc nguồn vốn ngân sách Nhà nước do địa phương quản lý 649,9 tỷ đồng, giảm 17,8% so cùng kỳ năm trước. Trong đó, vốn ngân sách nhà nước cấp tỉnh 334,3 tỷ đồng, giảm 36,6%; vốn ngân sách nhà nước cấp huyện 313,7 tỷ đồng, tăng 19,8%; Vốn ngân sách nhà nước cấp xã 1,9 tỷ đồng, giảm 6,9%. Tính đến hết ngày 29/02/2024 vốn đầu tư công năm 2024 đã giải ngân 192,98 tỷ đồng, bằng 4,7% kế hoạch năm, trong đó: Vốn nước ngoài (ODA) chưa giải ngân. 2.2. Xây dựngGiá trị sản xuất xây dựng trên địa bàn quý I/2024 (theo giá so sánh 2010) ước tính ước đạt 1.748,1 tỷ đồng, bằng 62,1% quý trước và tăng 16,7% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, công trình nhà để ở ước đạt 483,7 tỷ đồng, bằng 62% và tăng 13,6%; công trình nhà không để ở ước đạt 231,3 tỷ đồng, bằng 62,8% và bằng 64,2%; công trình kỹ thuật dân dụng ước đạt 948 tỷ đồng, bằng 61,7% và tăng 47,9%; hoạt động xây dựng chuyên dụng ước đạt 85,1 tỷ đồng, bằng 65,3% và tăng 20,3%. 3. Tài chính, ngân hàng 3.1. Thu, chi ngân sách Nhà nước Thủ tướng Chính phủ và HĐND tỉnh giao dự toán thu NSNN trên địa bàn tỉnh năm 2024 là 5.389 tỷ đồng (trong đó: Thu nội địa 5.331 tỷ đồng, thu từ hoạt động XNK 58 tỷ đồng). Ban Chỉ đạo Chống thất thu và đôn đốc thu nộp NSNN tỉnh đã ban hành Kế hoạch số 01/KH-BCĐ ngày 07/3/2024 về Kế hoạch chống thất thu năm 2024, trong đó dự kiến thu NSNN trên địa bàn tỉnh Quý I là 1.254,5 tỷ đồng, Quý II là 1.544,5 tỷ đồng, Quý III là 1.538,5 tỷ đồng và Quý IV là 1.051,5 tỷ đồng. Do vậy, từ đầu năm đến nay kết quả thu NSNN trên địa bàn tỉnh đã đạt kết quả tích cực. Tổng thu NSNN trên địa bàn tính đến ngày 17/3/2024 là 992 tỷ đồng, đạt 18,4% dự toán TW giao và dự toán HĐND tỉnh giao; tăng 24,7% so với cùng kỳ năm trước. Thu NSNN trên địa bàn tỉnh chưa đạt tiến độ được giao, nguyên nhân chủ yếu là hụt thu từ tiền SDĐ khối tỉnh. Hiện nay, một số khu đất thuộc tỉnh quản lý đã đủ điều kiện đưa ra tổ chức bán đấu giá nhiều lần nhưng không có người tham gia, do đó số thu tiền SDĐ khối tỉnh đạt tỷ lệ thấp (khoảng 4,5% dự toán HĐND tỉnh giao). Tổng chi NSĐP tính đến ngày 17/3/2024 là 3.342 tỷ đồng, đạt 30,1% DTTW giao dự toán HĐND tỉnh giao; trong đó chi thường xuyên là 1.272 tỷ đồng. 3.2. Hoạt động ngân hàng Tính đến cuối tháng 3/2024, tổng vốn huy động ước đạt 42.908 tỷ đồng, tăng 2,6% so với cuối năm 2023. Trong đó: Tiền gửi huy động từ các khu vực đạt 42.602 tỷ đồng, chiếm 99,29% tổng nguồn vốn huy động trên địa bàn, tăng 2,6%; phát hành giấy tờ có giá bằng VND 306 tỷ đồng, giảm 0,3%. Dư nợ cho vay trên địa bàn đạt 50.052 tỷ đồng, tăng 0,5% so với cuối năm 2023. Trong đó: Cho vay bằng VND 48.951 tỷ đồng, chiếm 98,07% tổng dư nợ, tăng 0,2% so với cuối năm 2023; cho vay ngoại tệ quy VND 1.101 tỷ đồng, tăng 13,5%; cho vay ngắn hạn 30.806 tỷ đồng, chiếm 61,55% tổng dư nợ, giảm 1,2% so với cuối năm 2023; cho vay trung, dài hạn 19.246 tỷ đồng, tăng 3,3%. Đến ngày 29/02/2024, nợ xấu trên toàn địa bàn chiếm tỷ lệ 0,77% trên tổng dư nợ, hầu hết các TCTD đều đảm bảo duy trì tỷ lệ nợ xấu ở mức cho phép (<3%). Tính đến cuối tháng 3/2024, nợ xấu chiếm tỷ lệ ước khoảng 0,70% trên tổng dư nợ toàn địa bàn. III. ĐẢM BẢO AN SINH XÃ HỘI, PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC, Y TẾ, VĂN HÓA VÀ CÁC LĨNH VỰC XÃ HỘI KHÁC 1. Lao động, đời sống dân cư và an sinh xã hội 1.1. Tình hình lao động và việc làm Lực lượng lao động dự ước quý I/2024 là 463.179 người, tăng 1,26% so cùng kỳ năm trước; trong đó: Nam 250.580 người, chiếm 54,1%, nữ 212.599 người, chiếm 45,9% trong tổng số lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên. Lực lượng lao động thuộc khu vực thành thị 142.659 người, chiếm 30,8%; lực lượng lao động khu vực nông thôn 320.520 người, chiếm 69,2% trong tổng số lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên. Ước tính quý I/2024, toàn tỉnh có khoảng 12 nghìn người thiếu việc làm; tỷ lệ người thiếu việc làm là 2,6%. Tỷ lệ thất nghiệp là 2,45%, giảm 0,2 điểm phần trăm so cùng kỳ năm trước. Trong tháng 3, trung tâm Dịch vụ việc làm đã tư vấn nghề - việc làm 1.295 lượt người; giới thiệu việc làm cho 380 lao động đến các cơ quan, đơn vị trong và ngoài tỉnh thuộc các thành phần kinh tế. Trong tháng đã tiếp nhận 348 hồ sơ hưởng bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) và có quyết định hưởng BHTN cho 269 trường hợp. Quý I, đã tư vấn nghề - việc làm 2.437 lượt người; giới thiệu việc làm và cung ứng 1.000 lao động đến các cơ quan, đơn vị trong và ngoài tỉnh thuộc các thành phần kinh tế. 1.2. Tình hình thực hiện chính sách đối với người có công cách mạng Thực hiện Nghị định số 131/2021/NĐ-CP ngày 30/12/2021 của Chính phủ về quy định chi tiết và biện pháp thi hành Pháp lệnh Ưu đãi người có công với cách mạng. Đã giải quyết chế độ 215 hồ sơ các loại; thu hồi số tiền trợ cấp chất độc hóa học hàng tháng hưởng sai (21 hồ sơ). Các địa phương phối hợp với bưu điện đã thực hiện chi trả trợ cấp tháng 01 và tháng 02/2024 cho gần 8.932 đối tượng hưởng chính sách kịp thời, đầy đủ trước Tết Nguyên đán với số tiền 29,01 tỷ đồng. Thực hiện chế độ điều dưỡng tập trung (514 người) và điều dưỡng tại gia đình (1.497 người) với số tiền gần 4.670 tỷ đồng đối với người có công, thân nhân liệt sĩ năm 2024 cho các huyện, thị xã, thành phố. 1.3. Công tác bảo trợ xã hội Chăm lo đời sống cho các đối tượng bảo trợ xã hội, hộ nghèo, hộ cận nghèo, trẻ em, người cao tuổi trên địa bàn tỉnh trong dịp Tết Nguyên đán Giáp Thìn 118.015 suất với số tiền hơn 49,41 tỷ đồng (gồm nguồn từ ngân sách và xã hội hóa). 2. Giáo dục Tổ chức kỳ thi chọn học sinh giỏi Quốc gia năm học 2023-2024 ngày 06/01/2024 tại Phú Yên an toàn, nghiêm túc, đúng quy chế. Ngày 25/01/2024, Bộ Giáo dục và Đào tạo công bố kết quả kỳ thi, Phú Yên có 34/64 thí sinh tham gia đạt giải gồm: 1 giải nhất, 2 giải nhì, 16 giải ba và 14 giải khuyến khích. Đây là năm Phú Yên có số lượng thí sinh đạt giải nhiều nhất, chất lượng giải cao nhất và tất cả các môn thi đều có thí sinh đạt giải. Tổ chức kỳ thi chọn học sinh giỏi cấp tỉnh THCS năm 2024 vào ngày 06/3/2024. Tổ chức cuộc thi Khoa học kĩ thuật dành cho học sinh trung học cấp tỉnh năm học 2023 - 2024; tham gia cuộc thi có 177 học sinh đến từ các trường THCS và THPT trên địa bàn tỉnh tham gia với 94 dự án. Kết quả Ban Tổ chức tặng 124 giấy khen và giấy chứng nhận cho 66 dự án của các em học sinh đạt giải nhất, nhì, ba và khuyến khích tại cuộc thi. 3. Y tế (Lũy kế đến ngày 17/3/2024) Trong tháng bệnh sốt xuất huyết phát hiện 4 ổ dịch, 111 ca mắc, không ca tử vong, giảm 7 ổ dịch, số ca mắc giảm 33,5%, tử vong tương đương; lũy kế toàn tỉnh có 13 ổ dịch, 420 ca mắc, không ca tử vong, so với cùng kỳ năm trước giảm 03 ổ dịch, số mắc tăng 15,1%, tử vong giảm 02 ca. Bệnh tay chân miệng phát hiện 9 ca mắc, tăng 8 ca mắc; lũy kế toàn tỉnh có 22 ca mắc, không tử vong, tăng 19 ca mắc so cùng kỳ năm trước. Bệnh sốt rét trong quý I/2024 không phát hiện ca mắc, bằng cùng kỳ năm trước. Tháng 3, đã phát hiện mới 03 trường hợp nhiễm HIV(+), không có trường hợp chuyển AIDS và không có trường hợp tử vong. Luỹ kế toàn tỉnh có 987 ca nhiễm HIV (trong đó 326 bệnh nhân AIDS, 226 bệnh nhân tử vong). 100% bệnh nhân HIV/AIDS ở cộng đồng tham gia BHYT. Tập trung chú trọng công tác giám sát phát hiện HIV, giám sát ca bệnh, tư vấn chăm sóc cho người nhiễm HIV/AIDS trong cộng đồng. Chương trình tiêm chủng mở rộng, dự kiến đến cuối tháng 3/2024 đạt 10,2% số cháu dưới 1 tuổi được tiêm chủng đầy đủ 8 loại vắc xin phòng bệnh; số bà mẹ mang thai được tiêm phòng uốn ván 2 mũi đạt tỷ lệ 17,8%. Bệnh viện Da liễu đã khám cho 3.244 lượt và điều trị cho 3.065 lượt bệnh ngoài da; tính từ đầu năm đến nay đã chỉ đạo và khám 8.666 lượt, điều trị cho 8.293 lượt bệnh ngoài da. Tiếp tục duy trì công tác tuyên truyền về bệnh phong trên các phương tiện thông tin đại chúng. 4. Hoạt động văn hóa, thể thao 4.1. Hoạt động văn hóa Tổ chức các chương trình, hoạt động đón tết Nguyên đán Giáp Thìn 2024: Liên hoan Giai điệu mùa xuân, chương trình nghệ thuật “Mừng Đảng - Mừng Xuân” năm 2024, biểu diễn nghệ thuật truyền thống bài chòi. Phối hợp tổ chức triển lãm “Mỹ thuật và nhiếp ảnh Xuân Giáp Thìn năm 2024”; hội báo Xuân Giáp Thìn 2024 tại Thư viện tỉnh với hơn 250 loại báo, tạp chí Trung ương và địa phương. Đã tổ chức tuyên truyền 214m2 pano các loại nhân dịp lễ, tết, ngày kỷ niệm. Tổ chức 44 buổi biểu diễn văn nghệ với chủ đề “Khúc Ca Xuân” và chiếu phim lưu động 338 buổi phục vụ đồng bào miền núi, vùng sâu, vùng xa tại các xã thuộc các huyện trên địa bàn tỉnh thu hút hàng ngàn lượt người xem. Sưu tầm bổ sung 47 hiện vật([12]), tổng số hiện vật đang lưu giữ và trưng bày tại Bảo tàng đến nay là 6.348 hiện vật; tổ chức phục vụ hơn 3.889 lượt khách tham quan tại Bảo tàng (trong đó có 39 lượt khách nước ngoài). Thư viện tiếp tục bổ sung sách, báo vào kho tài liệu và tổ chức phục vụ bạn đọc. Về phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá” và công tác gia đình: Thực hiện Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” năm 2024; tổ chức các hoạt động tuyên truyền hưởng ứng Ngày Quốc tế Hạnh phúc (20/3). 4.2. Thể dục - Thể thao Thể dục, thể thao quần chúng: Cử cán bộ về cơ sở giúp tổ chức các hoạt động thể dục thể thao đón tết Nguyên đán Giáp Thìn 2024. Tổ chức thành công 02 giải thể thao cấp tỉnh (Giải Vô địch Cờ tướng, Giải Vô địch Bida). Phối hợp tổ chức Giải bóng rổ sinh viên mừng Xuân; giải thể thao học đường thành phố Tuy Hòa năm học 2023-2024. Triển khai thực hiện kế hoạch tổ chức Giải vô địch quốc gia Marathon và cự ly dài Báo Tiền phong lần thứ 65 năm 2024 tại Phú Yên. Thể thao thành tích cao: Đội Điền kinh tham gia giải Bán Marathon quốc tế Việt Nam năm 2024, kết quả giành 01 HC Bạc (VĐV Lê Thị Tuyết); đội cờ vua tỉnh Phú Yên tham gia thi đấu giải Cờ vua các nhóm tuổi Trẻ miền Trung lần thứ XX, kết quả giành 03 HC Đồng; đội Bóng đá U19 tham gia vòng loại giải Bóng đá U19 quốc gia tại tỉnh Bình Phước, kết quả Nhất bảng E; tiếp tục tham dự Vòng chung kết, kết quả xếp 4/4 đội bảng B. 5. Tai nạn giao thông Theo số liệu thống kê, tai nạn giao thông trong tháng 3/2024 tăng số vụ, số người chết và và giảm số người bị thương so với cùng kỳ năm trước. Cụ thể: Từ ngày 15/02/2024-14/3/2024, toàn tỉnh đã xảy ra 25 vụ tai nạn giao thông, tăng 12 vụ; làm chết 20 người, tăng 14 người; bị thương 11 người, giảm 4 người so với cùng kỳ năm trước; thiệt hại tài sản 336,2 triệu đồng. Trong tháng chỉ xảy ra tai nạn giao thông đường bộ, không xảy ra tai nạn giao thông đường sắt. Lũy kế từ 15/12/2023-14/3/2024, toàn tỉnh đã xảy ra 76 vụ tai nạn giao thông, giảm 4 vụ; làm chết 42 người, giảm 6 người; bị thương 53 người, giảm 04 người so với cùng kỳ năm trước; thiệt hại tài sản 1.186,1 triệu đồng. Trong đó: Tai nạn giao thông đường bộ xảy ra 73 vụ, giảm 4 vụ; làm chết 38 người, giảm 7 người; bị thương 53 người, giảm 4 người bị thương so với cùng kỳ năm trước; thiệt hại tài sản 1.170,1 triệu đồng. Tai nạn giao thông đường sắt xảy ra 3 vụ, làm chết 4 người, so với cùng kỳ năm trước bằng số vụ, tăng 1 người chết; thiệt hại tài sản 16 triệu đồng. 6. Tình hình cháy, nổ và bảo vệ môi trường Từ ngày 15/02/2024-14/3/2024 toàn tỉnh không xảy ra cháy, nổ. Lũy kế đến 14/03/2024 toàn tỉnh xảy ra 2 vụ cháy, thiệt hại khoảng 13,95 ha mía. Từ 16/02/2024 đến 15/3/2024 lực lượng chức năng đã phát hiện 11 vụ vi phạm môi trường, lập biên bản xử lý vi phạm 8 vụ, phạt tiền 3.429,1 triệu đồng. So với tháng trước, tăng 4 vụ vi phạm đã phát hiện (tăng 57,14%), tăng 01 vụ vi phạm đã xử lý (tăng 14,29%), tăng 3.230 triệu đồng số tiền xử phạt. So với cùng kỳ, giảm 4 vụ vi phạm đã phát hiện (giảm 26,67%), tăng 5 vụ vi phạm đã xử lý (tăng 166,67%), tăng 3.409,1 triệu đồng số tiền xử phạt; Lũy kế đến 15/3/2024, toàn tỉnh phát hiện 43 vụ vi phạm môi trường, lập biên bản xử lý vi phạm 18 vụ, phạt tiền 3.638,4 triệu đồng. Lũy kế so cùng kỳ tăng 12 vụ vi phạm đã phát hiện (tăng 38,71%), bằng số vụ vi phạm đã xử lý, tăng số tiền xử phạt 3.598,4 triệu đồng. Tóm lại, tình hình kinh tế - xã hội quý I/2024 tỉnh Phú Yên cơ bản ổn định và phát triển như: Chỉ số sản xuất công nghiệp tăng 8,6%; tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng 12%; doanh thu hoạt động vận tải, kho bãi và dịch vụ hỗ trợ vận tải tăng 10%; nhiều sản phẩm trồng trọt thu hoạch sản lượng tăng so cùng kỳ năm trước; sản lượng thịt hơi gia súc xuất chuồng tăng 2,8%; gia cầm xuất chuồng tăng 4,8%; sản lượng khai thác gỗ rừng trồng tăng 45,4%; sản lượng thủy sản tăng 4,5%. Các hoạt động dịch vụ như dịch vụ lưu trú, dịch vụ ăn uống và các dịch vụ vui chơi giải trí diễn ra nhộn nhịp do nhu cầu sử dụng của người dân trong tỉnh và khách du lịch ngoài tỉnh đến Phú Yên tăng… Các chế độ, chính sách cho các đối tượng theo quy định thực hiện kịp thời, bảo đảm an sinh xã hội trên địa bàn tỉnh. Các lĩnh vực văn hóa, xã hội, cải cách hành chính được quan tâm thực hiện. Công tác y tế, chăm sóc sức khỏe Nhân dân được chú trọng. Bên cạnh đó, vốn đầu tư thực hiện trên địa bàn theo giá hiện hành giảm 3%; số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới giảm 13,1% so cùng kỳ năm trước. Số ca mắc sốt xuất huyết tăng 55 ca (tăng 15,1%); số ca mắc bệnh tay chân miệng tăng 19 ca (gấp 7,3 lần). Tình hình trật tự an toàn xã hội còn tiềm ẩn nhiều yếu tố phức tạp; số vụ vi phạm môi trường đã phát hiện tăng 12 vụ (tăng 38,71%)./. CỤC THỐNG KÊ TỈNH PHÚ YÊN [1] Quý I/2023 tăng 6,93% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Nông, lâm thủy sản tăng 3,26%; công nghiệp và xây dựng tăng 11,91% (công nghiệp tăng 10,84%); dịch vụ tăng 6,07%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm tăng 0,64%. [2] Tốc độ tăng GRDP quý I/2024 so với cùng kỳ năm trước của một số tỉnh như: Thanh Hóa tăng 13,15%; Khánh Hòa tăng 12,4%; Ninh Thuận tăng 8,26%; Hà Tĩnh tăng 7,82%; Bình Thuận tăng 6,43%; Nghệ An tăng 6,38%; Bình Định tăng 6,3%; Phú Yên tăng 6,18%; Quảng Bình tăng 5,68%; Quảng Trị tăng 4,84%; Thừa Thiên - Huế tăng 4,28%; Quảng Ngãi tăng 3,15%; Đà Nẵng giảm 0,83% và Quảng Nam giảm 3,06%. [3] Công nghiệp khai khoáng tăng 6,79%; chế biến, chế tạo tăng 8,4%; sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí tăng 7,74%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 10,37% so với cùng kỳ năm trước.[4] Một số ngành công nghiệp cấp II có chỉ số sản xuất công nghiệp quý I/2024 tăng so với cùng kỳ năm trước như sau: Sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn tăng 22,1%; sản xuất chế biến thực phẩm tăng 17,7%; sản xuất giường, tủ, bàn, ghế tăng 15,7%; sản xuất trang phục tăng 13%; sản xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất tăng 12,6%; cung cấp nước; quản lý và xử lý rác thải tăng 7,6%; sản xuất, phân phối điện, hơi nước tăng 6,5%; chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ, tre, nứa tăng 6,5%; khai khoáng khác tăng 6,1%; sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic tăng 0,8% so với cùng kỳ năm trước. Bên cạnh đó ngành sản xuất thuốc hóa dược và dược liệu giảm 34,2%; sản xuất đồ uống giảm 14,5% so với cùng kỳ năm trước.[5] Trong đó: Ngành nông lâm và thủy sản 02 DN; ngành công nghiệp và xây dựng có 24 DN; ngành thương mại và dịch vụ có 47 DN[6] Trong đó có 02 nhóm ngành hàng tăng là: Phân bón, thuốc trừ sâu tăng 13,8% do nhu cầu bà con nông dân tăng; lương thực, thực phẩm tăng 33,6% là do đang vào mùa thu hoạch cây xoắn mì, nhu cầu tiêu dùng các loại thủy hải sản và gạo ở trong nước và xuất khẩu tăng.[7] Một số nhóm ngành hàng tăng khá so tháng 3/2023 như: Lương thực, thực phẩm tăng 10,7%; Phương tiện đi lại, trừ ô tô con (kể cả phụ tùng) tăng 14,6%; Xăng, dầu các loại tăng 13,0%; Nhiên liệu khác (trừ xăng dầu) tăng 12,1%. Riêng có 01 nhóm ngành hàng giảm, gồm nhóm ngành Ô tô con (loại dưới 9 chỗ ngồi trở xuống) giảm 51,6%.[8] Một số nhóm ngành hàng tăng khá so quý I/2023 như: Lương thực, thực phẩm tăng 14,8%; Phương tiện đi lại, trừ ô tô con (kể cả phụ tùng) tăng 7,6%; Xăng, dầu các loại tăng 9,3% ; Nhiên liệu khác (trừ xăng dầu) tăng 9,3%. Riêng có 02 nhóm ngành hàng giảm, gồm nhóm ngành Ô tô con (loại dưới 9 chỗ ngồi trở xuống) giảm 41,6%; Đá quý, kim loại quý và sản phẩm giảm 7,2%, nguyên nhân là do sức mua thấp.[9] Trong đó: Dịch vụ kinh doanh bất động sản 54,1 tỷ đồng, tăng 5,8%; dịch vụ hành chính và dịch vụ hỗ trợ 92,2 tỷ đồng, tăng 8,8%; dịch vụ giáo dục và đào tạo dự ước 37,2 tỷ đồng, tăng 8,5%; dịch vụ y tế và hoạt động trợ giúp xã hội 54,2 tỷ đồng, tăng 40,8%; dịch vụ nghệ thuật, vui chơi và giải trí 261,5 tỷ đồng, tăng 63,9%; dịch vụ sửa chữa máy vi tính, đồ dùng cá nhân và gia đình 68,2 tỷ đồng, tăng 24%; dịch vụ khác 163,9 tỷ đồng, tăng 13,3%.[10] Chủ yếu mặt hàng: Khám chữa bệnh nội trú tăng 9,23% nguyên nhân do tỉnh đã triển công văn Số: 2906/SYT-KHTC ngày 20 tháng 11 năm 2024 của Sở Y tế Phú Yên về việc triển khai thực hiện Thông tư số 22/2024/TT-BYT của Bộ Y tế quy định thống nhất giá dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh bảo hiểm y tế giữa các bệnh viện cùng hạng trên toàn quốc và hướng dẫn áp dụng giá, thanh toán chi phí khám bệnh, chữa bệnh trong một số trường hợp.[11] Trong đó: Vốn trung ương quản lý 1.451,8 tỷ đồng, tăng 35,9%, riêng khối lượng thực hiện của Dự án xây dựng công trình đường bộ cao tốc Bắc - Nam phía Đông giai đoạn 2021-2025 đoạn qua địa phận tỉnh Phú Yên trong quý I/2024 ước khoảng 1.417,6 tỷ đồng; vốn địa phương quản lý 815,5 tỷ đồng, giảm 10,4% so cùng kỳ năm trước[12] gồm 36 hiện vật chủ đề “Lịch sử Phú Yên xưa”, 11 hiện vật chủ đề cuộc sống đương đại.
ĐIỀU TRA DÂN SỐ VÀ NHÀ Ở GIỮA KỲ NĂM 2024
- 14/03/2024 12:29
NGÀY 01/4/2024, TỔNG CỤC THỐNG KÊ SẼ TỔ CHỨC THỰC HIỆN ĐIỀU TRA DÂN SỐ VÀ NHÀ Ở GIỮA KỲ NĂM 2024Ngày 15 tháng 02 năm 2023, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 03/2023/QĐ-TTg về việc Ban hành Chương trình điều tra thống kê quốc gia. Theo đó, Điều tra dân số và nhà ở giữa kỳ được tổ chức 5 năm 1 lần (giữa 2 kỳ Tổng điều tra dân số và nhà ở) vào các năm có số tận cùng là 4. Thực hiện Chương trình điều tra thống kê quốc gia, ngày 14 tháng 7 năm 2023, Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) ký Quyết định số 629/QĐ-TCTK về Ban hành Phương án Điều tra dân số và nhà ở giữa kỳ năm 2024.Theo Phương án, Điều tra dân số và nhà ở giữa kỳ năm 2024 (viết gọn là Điều tra DSGK 2024) được thực hiện nhằm mục đích chính: (i) Thu thập thông tin về dân số và nhà ở làm cơ sở để đánh giá tình hình thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội thời kỳ 2021 – 2025; xây dựng chính sách, lập kế hoạch dân số và nhà ở phục vụ lập Kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội thời kỳ 2026 – 2030; giám sát thực hiện các Mục tiêu Phát triển bền vững của Liên hợp quốc mà Chính phủ Việt Nam đã cam kết. (ii) Cung cấp số liệu về quy mô dân số đến cấp huyện 5 năm sau Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019; làm cơ sở rà soát, hiệu chỉnh số liệu dân số hàng năm giai đoạn 2020 – 2024; cập nhật kho dữ liệu dân số và nhà ở do Tổng cục Thống kê quản lý phục vụ nghiên cứu, phân tích và dự báo quá trình phát triển dân số và nhà ở giữa hai kỳ tổng điều tra trên phạm vi cả nước và từng địa phương; đáp ứng yêu cầu so sánh quốc tế.Điều tra DSGK 2024 được thực hiện trên phạm vi cả nước tại 63 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (tỉnh, thành phố), gồm tất cả các quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (huyện) ngoại trừ 4 huyện đảo nhỏ (là: Bạch Long Vỹ, thành phố Hải Phòng; Cồn Cỏ, tỉnh Quảng Trị; Hoàng Sa, thành phố Đà Nẵng; Trường Sa, tỉnh Khánh Hòa).Đối tượng điều tra của Điều tra DSGK 2024 bao gồm: (i) Hộ dân cư (bao gồm cả thông tin về nhà ở của hộ); (ii) Nhân khẩu thực tế thường trú của hộ dân cư (bao gồm cả những người thuộc lực lượng vũ trang, người có quốc tịch nước ngoài hiện đang ăn, ngủ tại hộ), không bao gồm những người đang sống trong khu vực quản lý riêng của quân đội và công an.Đơn vị điều tra của Điều tra DSGK 2024 là hộ dân cư (viết gọn là hộ). Hộ bao gồm một người ăn riêng, ở riêng hoặc một nhóm người ở chung và ăn chung. Đối với hộ có từ 02 người trở lên, các thành viên trong hộ có thể có hoặc không có quan hệ ruột thịt, hôn nhân, nuôi dưỡng; có hoặc không có quỹ thu – chi chung.Thời điểm điều tra là 0 giờ ngày 01/4/2024. Thời gian thu thập thông tin trong Điều tra DSGK 2024 được bắt đầu từ ngày 01/4/2024 đến ngày 30/4/2024.Điều tra DSGK 2024 áp dụng phương pháp phỏng vấn trực tiếp. Điều tra viên (ĐTV) đến từng hộ để hỏi người cung cấp thông tin và ghi đầy đủ các câu trả lời vào phiếu điều tra điện tử được thiết kế trên thiết bị di động thông minh (CAPI). Một số trường hợp đặc biệt, đối với những đối tượng điều tra không thể tiếp cận trực tiếp hoặc tiếp cận nhiều lần không được, Cục trưởng Cục Thống kê quyết định lựa chọn phương pháp thu thập thông tin phù hợp bằng cách gửi mẫu phiếu giấy hoặc phiếu điện tử (CAPI hoặc Webform) để đối tượng điều tra tự cung cấp thông tin.Người cung cấp thông tin là Chủ hộ (hoặc người trưởng thành am hiểu về các thành viên trong hộ khi chủ hộ đi vắng) là người cung cấp thông tin của hộ và thành viên hộ. Đối với những thông tin về thành viên hộ mà chủ hộ không nắm chắc, ĐTV gặp và phỏng vấn trực tiếp thành viên hộ thu thập thông tin.Điều tra DSGK 2024 sẽ thu thập thông tin về 7 nội dung chính sau: (1) Thông tin về nhân khẩu học của các thành viên hộ; (2) Thông tin về di cư; (3) Thông tin về giáo dục; (4) Thông tin về hôn nhân; (5) Thông tin về lịch sử sinh của nữ từ 10 – 49 tuổi; (6) Thông tin về người chết của hộ; (7) Thông tin về nhà ở và điều kiện sống của hộ.Điều tra DSGK 2024 sử dụng 03 loại phiếu để thu thập thông tin phục vụ lập bảng kê hộ dân cư và thu thập thông tin phục vụ tổng hợp các chỉ tiêu, cụ thể:– Phiếu 01/DSGK-BK: Thu thập các thông tin phục vụ lập bảng kê hộ dân cư.– Phiếu 02/DSGK-PN: Thu thập thông tin nhân khẩu học và di cư của dân số, thông tin về người chết trong vòng 5 năm và nhà ở của hộ.– Phiếu 03/DSGK-PD: Ngoài các thông tin như Phiếu 02/DSGK-PN, bổ sung thu thập các thông tin về tình trạng hôn nhân, giáo dục của thành viên hộ; lịch sử sinh của nữ từ 10-49 tuổi, thông tin về nhà ở và điều kiện sống của hộ.Kết quả điều tra toàn bộ sẽ được công bố vào tháng 11-12/2024. Các báo cáo phân tích chuyên đề sẽ được công bố vào năm 2025./.Nguồn: Tạp chí Con số và Sự kiện
TỔNG CỤC THỐNG KÊ VIỆT NAM ĐỀ XUẤT NHIỀU NỘI DUNG QUAN TRỌNG TẠI KỲ HỌP LẦN THỨ 55 CỦA ỦY BAN THỐNG KÊ LIÊN HỢP QUỐC
- 12/03/2024 12:27
Từ ngày 27/02 đến 01/3/2024, Đoàn đại biểu cấp cao của Tổng cục Thống kê Việt Nam do Tổng cục trưởng Nguyễn Thị Hương làm trưởng đoàn đã tham dự Kỳ họp lần thứ 55 của Ủy ban Thống kê Liên Hợp Quốc (UNSC55) tại New York, Hoa Kỳ.Ủy ban Thống kê Liên Hợp Quốc (UNSC) là cơ quan cao nhất trong hệ thống thống kê quốc tế có nhiệm vụ xây dựng và phê duyệt tiêu chuẩn thống kê toàn cầu. Kỳ họp UNSC55 năm nay thảo luận và thông qua 31 nội dung nghiệp vụ, tập trung thảo luận một số vấn đề trọng tâm, gồm: Khoa học dữ liệu; Thống kê năng lực quản trị; Dữ liệu và chỉ tiêu Chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững; Các nguyên tắc hoạt động thống kê của Liên Hợp Quốc; Phương thức làm việc của Ủy ban Thống kê Liên Hợp Quốc; Hợp tác thống kê trong khu vực và toàn cầu.Tại Kỳ họp UNSC55, Đoàn Việt Nam phát biểu tham luận về 05 nội dung: (1) Phương thức hoạt động của Ủy ban Thống kê; (2) Dữ liệu và chỉ tiêu Chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững; (3) Khoa học dữ liệu; (4) Thống kê nông nghiệp và nông thôn; (5) Tổng điều tra dân số và nhà ở.Việt Nam ghi nhận và ủng hộ Cơ quan Thống kê Liên Hợp Quốc trong triển khai các công việc liên quan đến Phương thức hoạt động của Ủy ban Thống kêPhát biểu về Phương thức hoạt động của Ủy ban Thống kê, Tổng cục Thống kê Việt Nam ghi nhận và ủng hộ Cơ quan Thống kê Liên Hợp Quốc (UNSD) trong triển khai các công việc liên quan đến Phương thức hoạt động của Ủy ban Thống kê. Trong bối cảnh biến động toàn cầu, số lượng quốc gia tham gia vào Liên Hợp Quốc ngày càng tăng lên so với trước đây, việc UNSD triển khai các sáng kiến và hoạt động liên quan đến Phương thức hoạt động của Ủy ban Thống kê đã chứng minh cam kết của Liên Hợp Quốc về một cộng đồng thống kê đại diện hơn, đặc biệt đối với các nước đang phát triển theo đúng phương châm “không để ai bị bỏ lại phía sau” do các cơ quan Liên Hợp Quốc khởi xướng.Để đáp ứng kịp thời nhu cầu phân chia tính đại diện theo phân vùng địa lý công bằng hơn và có tính đến tính đại diện cấp tiểu vùng của nhóm các quốc gia hải đảo nhỏ đang phát triển và nhóm các quốc gia kém phát triển nhất, Việt Nam ủng hộ Tài liệu nghiên cứu cơ sở “Tính đại diện vì mục tiêu không để ai bị bỏ lại phía sau” do Bộ phận thường trực biên soạn và Lộ trình tăng thành viên Ủy ban Thống kê (2026-2028) công bố trong hội thảo trực tuyến do UNSD tổ chức vào ngày 31/01/2024.Việt Nam mong muốn UNSD nhanh chóng thực hiện các thủ tục cần thiết theo kế hoạch đề ra để trình ECOSOC thông qua Nghị quyết, làm cơ sở cho việc thực hiện các hoạt động của Ủy ban Thống kê từ năm 2025. Với việc tăng thêm số lượng thành viên, Việt Nam đề nghị UNSD triển khai các hoạt động nâng cao năng lực cho công chức thống kê các nước đặc biệt các nước đang phát triển.Tổng cục trưởng Nguyễn Thị Hương (thứ nhất từ trái sang) dẫn đầu Đoàn đại biểu cấp cao Tổng cục Thống kê Việt Nam tham dự Kỳ họp lần thứ 55 của Ủy ban Thống kê Liên hợp quốc tại New York, Hoa KỳViệt Nam luôn nỗ lực trong thực hiện các chỉ tiêu của mục tiêu phát triển bền vữngVề nội dung Dữ liệu và chỉ tiêu Chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững, góp ý cho Báo cáo của Nhóm liên cơ quan và chuyên gia về các mục tiêu phát triển bền vững (IAEG), Tổng cục Thống kê Việt Nam đánh giá cao công việc của IAEG trong năm 2023 và nhất trí với đề xuất sửa đổi hàng năm cho các chỉ tiêu SDG trong Phụ lục 1 của báo cáo. Bên cạnh đó, Tổng cục Thống kê Việt Nam cũng nhất trí cao với các tiêu chí đề xuất cho đợt đánh giá toàn diện khung chỉ tiêu vào năm 2025, với mục đích đưa ra là không làm thay đổi đáng kể khung chỉ tiêu SDG ban đầu đã được triển khai ở hầu hết các quốc gia; hoặc tăng gánh nặng báo cáo lên hệ thống thống kê quốc gia.Kể từ khi khung chỉ tiêu SDG toàn cầu được thông qua, Việt Nam đã nội địa hóa và xây dựng Bộ chỉ tiêu thống kê phát triển bền vững của Việt Nam gồm 158 chỉ tiêu (bao gồm cả chỉ tiêu SDG toàn cầu và chỉ tiêu riêng biệt của Việt Nam); và đã rất nỗ lực trong việc thực hiện các chỉ tiêu SDG này. Trong năm 2024, Việt Nam đang có kế hoạch sửa đổi Bộ chỉ tiêu thống kê phát triển bền vững của Việt Nam để phù hợp với bối cảnh mới và làm tăng tính sẵn có dữ liệu để báo cáo cho khung chỉ tiêu SDG toàn cầu. Trong quá trình sửa đổi, Việt Nam sẽ rà soát, cập nhật các thay đổi mà nhóm IAEG đã thực hiện hàng năm, đánh giá khả năng thực hiện tại Việt Nam để quy định cho phù hợp, đồng thời sẽ tiếp tục học hỏi những kinh nghiệm hay từ các quốc gia khác thông qua trang web “The SDG Good Practices”.Góp ý cho Báo cáo của Nhóm cấp cao về hợp tác, điều phối và nâng cao năng lực thống kê phục vụ Chương trình nghị sự 2030 về phát triển bền vững, Tổng cục Thống kê Việt Nam nhất trí với Tuyên bố Hàng Châu là: Đẩy nhanh tiến độ thực hiện Kế hoạch hành động toàn cầu Cape Town vì dữ liệu phát triển bền vững. Trong đó nhấn mạnh rằng, dữ liệu chất lượng cao, kịp thời, mở và toàn diện là then chốt để đẩy nhanh tiến độ đạt được các mục tiêu phát triển bền vững và Chương trình nghị sự 2030 yêu cầu tiếp tục thúc đẩy đổi mới dữ liệu, tăng cường hợp tác và tài chính cho dữ liệu thông qua thực hiện sáng kiến “Dữ liệu cho hiện tại – Data for Now”; hay triển khai chương trình mới về dữ liệu do công dân tạo ra để trao quyền cho các cá nhân và cộng đồng đóng góp vào việc sản xuất dữ liệu, kiểm soát dữ liệu và cải thiện cuộc sống của họ.Tại Việt Nam, nhằm tăng cường đổi mới dữ liệu cho phát triển bền vững, Tổng cục Thống kê Việt Nam cũng đang tham gia dự án “Data for Now” để học hỏi và tăng cường thu thập dữ liệu cho một số chỉ tiêu SDG. Ngoài ra, trong quá trình thực hiện báo cáo quốc gia tự nguyện và báo cáo SDG của quốc gia, ngoài việc sử dụng dữ liệu thống kê chính thức, Việt Nam cũng đang ngày càng mở rộng sự tham gia từ các tổ chức xã hội, dân sự vào quá trình thực hiện SDG của Việt Nam.Tuy nhiên, những nguồn dữ liệu mới này chưa được nghiên cứu và áp dụng rộng rãi tại Việt Nam, nên Tổng cục Thống kê Việt Nam còn gặp nhiều khó khăn trong việc thực hiện đổi mới nguồn dữ liệu, do đó mong muốn nhận được hỗ trợ nhiều hơn từ các tổ chức quốc tế về nội dung này để có thể sớm áp dụng và thực hiện tại Việt Nam.Thống kê Việt Nam đang từng bước nghiên cứu, sử dụng các nguồn dữ liệu khác thay thế cho nguồn dữ liệu điều tra trong sản xuất thông tin thống kêPhát biểu về nội dung Khoa học dữ liệu, Tổng cục Thống kê Việt Nam đánh giá cao những thành tựu đạt được của Ủy ban Chuyên gia về Dữ liệu lớn và Khoa học dữ liệu thống kê chính thức và các nhóm công tác (task team) của Ủy ban trong 10 năm thực hiện các nhiệm vụ nhằm định hướng và thúc đẩy việc sử dụng dữ liệu lớn và khoa học dữ liệu trong thống kê chính thức. Nhất trí với các công việc tiếp theo của Ủy ban Chuyên gia về sử dụng dữ liệu lớn trong công tác thống kê.Cùng với xu hướng chung, thống kê Việt Nam đang từng bước nghiên cứu, sử dụng các nguồn dữ liệu khác thay thế cho nguồn dữ liệu điều tra trong sản xuất thông tin thống kê, trong đó có nguồn dữ liệu hành chính và dữ liệu lớn.Đối với nguồn dữ liệu hành chính: Việt Nam đã sử dụng các dữ liệu vi mô từ cơ quan thuế, dữ liệu hải quan trong biên soạn các chỉ tiêu thống kê; sử dụng các chỉ tiêu tổng hợp từ dữ liệu hành chính của các Bộ, ngành như nông nghiệp, y tế, giáo dục, an sinh xã hội, thu chi ngân sách nhà nước, ngân hàng… trong biên soạn thông tin thống kê. Đang tiếp tục nghiên cứu và phối hợp với các Bộ, ngành và địa phương để kết nối dữ liệu hành chính (dữ liệu vi mô) phục vụ xây dựng cơ sở dữ liệu thống kê quốc gia.Đối với nguồn dữ liệu lớn: Việt Nam đang nghiên cứu, thí điểm thu thập dữ liệu lớn để biên soạn chỉ số giá tiêu dùng, chỉ số giá bất động sản giúp hỗ trợ tính toán các chỉ tiêu thống kê quốc gia; đang nghiên cứu sử dụng dữ liệu viễn thám cho thống kê lĩnh vực nông nghiệp; ứng dụng máy học trong thực hiện mã hóa ngành kinh tế. Tuy nhiên, các hoạt động mới dừng ở nghiên cứu và thí điểm, chưa được áp dụng thực hiện trong thống kê chính thức tại Việt Nam. Một trong những thách thức của áp dụng dữ liệu lớn tại Việt Nam: (i) chưa đủ căn cứ pháp lý để thực hiện; (ii) chưa hoàn chỉnh phương pháp luận áp dụng cho Việt Nam; (iii) chưa được các cơ quan/tổ chức quản lý dữ liệu lớn cho phép tiếp cận và sử dụng chính thức.Để thúc đẩy nghiên cứu và ứng dụng khoa học dữ liệu trong công tác thống kê, Tổng cục Thống kê mong muốn được tham gia nhiều hơn nữa trong các hoạt động của Ủy ban và nhận được các hỗ trợ cần thiết để Việt Nam sử dụng nguồn dữ liệu lớn cho công tác thống kê, cụ thể là tham gia các hoạt động nghiên cứu, thí điểm của Ủy ban; tham dự các khóa đào tạo trực tiếp và trực tuyến, đặc biệt các khóa đào tạo trực tiếp về sử dụng dữ liệu lớn cho công tác thống kê.Việt Nam tích cực chuẩn bị cho Tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp năm 2025Trong nội dung Thống kê nông nghiệp và nông thôn, Tổng cục Thống kê Việt Nam nói về Tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp năm 2025. Đây là lần thứ 6 Việt Nam thực hiện Tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp (lần đầu tiên thực hiện vào năm 1994). Phạm vi của Tổng điều tra tập trung vào 3 trụ cột lớn: Nông nghiệp, nông dân và nông thôn. Phạm vi này rộng hơn so với Tổng điều tra nông nghiệp của nhiều quốc gia trên thế giới. Kết quả Tổng điều tra đảm so sánh quốc tế.Kỳ Tổng điều tra lần này có nhiều nội dung đổi mới, trong đó có nội dung đổi mới để tính toán các chỉ tiêu phát triển bền vững, thông tin về số hóa, sử dụng AI trong sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản, thông tin về khả năng tiếp cận năng lượng sạch của khu vực nông thôn. Tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp năm 2025 có những đổi mới về phương pháp thu thập thông tin, trong đó sử dụng điều tra CAPI cho toàn bộ các đơn vị hộ, trang trại và dùng Webform để thu thập thông tin cấp xã.Hiện Việt Nam đang trong giai đoạn thực hiện các công tác chuẩn bị: Cập nhật danh sách các đơn vị điều tra, điều tra thí điểm, và các công việc liên quan. Tổng cục Thống kê Việt Nam đề xuất Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên hợp quốc (FAO) hỗ trợ xây dựng nội dung Tổng điều tra đáp ứng các chỉ tiêu phát triển bền vững và các phương thức sản xuất mới trong nông nghiệp; Hỗ trợ rà soát, lập danh sách các đơn vị sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản, nhằm thu thập thông tin đầy đủ của Tổng điều tra và làm dàn mẫu cho các cuộc điều tra thường xuyên.Về đổi mới phương pháp tính giá trị sản xuất ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản; nghiên cứu phương pháp hạch toán giá trị thu từ dịch vụ môi trường rừng và thu từ bán tín chỉ các bon trong hệ thống tài khoản quốc gia: Tổng cục Thống kê VIệt Nam đang áp dụng tính giá trị sản xuất ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản nhằm biên soạn GDP và GRDP theo phương pháp sản xuất. Giá trị sản xuất NLTS tính theo giá so sánh bằng cách lấy sản lượng năm hiện hành nhân (x) với giá bán sản phẩm năm 2010. Giá trị sản xuất theo giá hiện hành sử dụng giá trị sản xuất theo giá so sánh và nhân (x) với chỉ số giá năm hiện hành so năm gốc 2010 của nhóm sản phẩm. Hiện nay, Tổng cục Thống kê đang nghiên cứu, đổi mới phương pháp tính giá trị sản xuất ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản do việc tính Giá trị sản xuất theo giá hiện hành dựa vào giá trị sản xuất theo giá so sánh không phản ánh được kịp thời sự thay đổi về giá trị của sản phẩm do chất lượng sản phẩm thay đổi.Tại Hội nghị, Tổng cục Thống kê Việt Nam đề xuất, các tổ chức, cơ quan thống kê phát triển trên thế giới hỗ trợ, chia sẻ phương pháp luận tính giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản theo phương pháp hiện đại và đảm bảo đầy đủ các hoạt động; nghiên cứu hạch toán giá trị thu từ dịch vụ môi trường rừng và thu từ bán tín chỉ cac-bon để phù hợp với phương pháp luận của hệ thống tài khoản quốc gia.Toàn cảnh Kỳ họp lần thứ 55 của Ủy ban Thống kê Liên hợp quốcViệt Nam sẽ tập trung cải tiến thực hiện Tổng điều tra dân số và nhà ởTrong nội dung Tổng điều tra Dân số và nhà ở, Tổng cục Thống kê Việt Nam cho biết, Tổng điều tra dân số và nhà ở tại Việt Nam là 1 trong 3 cuộc tổng điều tra thống kê được quy định trong Luật Thống kê, được thực hiện 10 năm một lần vào các năm có tận cùng là 9. Tổng điều tra dân số và nhà ở chu kỳ 2020 được thực hiện vào năm 2019; là cuộc Tổng điều tra dân số lần thứ 5 tại Việt Nam.Phương pháp luận thực hiện Tổng điều tra dân số và nhà ở của Việt Nam cơ bản được thực hiện theo hướng dẫn và khuyến nghị của thống kê Liên Hợp Quốc.Trong kỳ Tổng điều tra năm 2019, Việt Nam đã áp dụng gần như hoàn toàn (99,9%) phiếu điều tra điện tử, hầu hết là qua thiết bị điện tử di động thông minh (CAPI). Với việc áp dụng phiếu điều tra điện tử và đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác xử lý, làm sạch dữ liệu, chỉ sau 02 tháng Việt Nam đã công bố được kết quả sơ bộ và sau 08 tháng có thể công bố được kết quả chính thức. Kết quả Tổng điều tra dân số và nhà ở được công bố trên nhiều hình thức khác nhau bao gồm: Hội nghị công bố; các ấn phẩm (Sơ bộ, chính thức, toàn bộ, chuyên sâu…); Kho dữ liệu; Trang dữ liệu không gian về dân số và phát triển…Mặc dù Tổng điều tra dân số được thực hiện trên toàn bộ các địa bàn điều tra trên cả nước nhưng Việt Nam hiện chưa có hệ thống bản đồ số tới cấp địa bàn và hệ thống số hóa các đơn vị nhà ở. Bên cạnh đó, Tổng điều tra dân số của Việt Nam chưa thu thập được thông tin về người nước ngoài. Với mục tiêu “không ai bị bỏ lại phía sau”, người nước ngoài lần đầu được đưa vào là đối tượng điều tra trong Điều tra dân số và nhà ở giữa kỳ năm 2024.Nhằm cải tiến thực hiện Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2029, Tổng cục Thống kê Việt Nam đề nghị được hỗ trợ nâng cao năng lực trong việc: Nghiên cứu áp dụng phương pháp luận, công nghệ về xây dựng hệ thống bản đồ số đến cấp địa bàn điều tra và số hóa các đơn vị nhà ở; thu thập thông tin về người nước ngoài; Ứng dụng các phương pháp và kỹ thuật thu thập thông tin khác nhau; sử dụng nguồn dữ liệu hành chính cho Tổng điều tra./.
Hội nghị công bố quyết định của Tổng cục trưởng về công tác cán bộ
- 16/02/2024 12:27
Chiều ngày 15/02/2024, Cục Thống kê tỉnh Phú Yên tổ chức Hội nghị công bố quyết định của Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê về công tác cán bộ. Tham dự và chủ trì hội nghị có ông Cao Đăng Viễn - Cục trưởng Cục Thống kê tỉnh Phú Yên; ông Lê Hữu Chí - Phó Cục trưởng, cùng tham dự Hội nghị gồm có lãnh đạo các phòng thuộc Cục, Chi cục Thống kê các huyện, thị xã, thành phố. Tại Hội nghị, ông Cao Đăng Viễn - Cục trưởng Cục Thống kê tỉnh Phú Yên công bố và trao Quyết định của Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê theo Quyết định Số 110/QĐ-TCTK ngày 05/02/2024 về việc bổ nhiệm có thời hạn ông Cao Thanh Sơn, Trưởng phòng, Phòng Thống kê Tổng hợp giữ chức vụ Phó Cục trưởng Cục Thống kê tỉnh Phú Yên kể từ ngày 05/02/2024.Ông Cao Đăng Viễn - Cục trưởng Cục Thống kê tỉnh Phú Yên trao quyết định của Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê về công tác cán bộ Sau khi trao quyết định và tặng hoa chúc mừng ông Cao Thanh Sơn, ông Cao Đăng Viễn - Cục trưởng Cục Thống kê tỉnh Phú Yên phát biểu giao nhiệm vụ đối với ông Cao Thanh Sơn trên cương vị mới, luôn giữ vững phẩm chất chính trị, bản lĩnh vững vàng, không ngừng nỗ lực phấn đấu, rèn luyện, trau dồi kiến thức nghiệp vụ và kỹ năng quản lý, phát huy kinh nghiệm của mình, hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ được giao, phối hợp chặt chẽ cùng với tập thể Lãnh đạo Cục, cán bộ, công chức, người lao động cơ quan đoàn kết, tham mưu, giúp việc cho Cục trưởng thực hiện tốt chức năng lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành. Tiếp tục duy trì và phát huy tinh thần đoàn kết, thống nhất của tập thể, xây dựng cơ quan vững mạnh, trách nhiệm, kỷ cương, kỷ luật xứng đáng với niềm tin tưởng và mong muốn của Lãnh đạo Tổng cục Thống kê, của Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh, đáp ứng với kỳ vọng của công chức, người lao động của ngành Thống kê tỉnh Phú Yên và yêu cầu của công tác thống kê trong tình hình mới. Ông Cao Thanh Sơn cảm ơn và tiếp thu toàn bộ ý kiến phát biểu giao nhiệm vụ của ông Cao Đăng Viễn - Cục trưởng Cục Thống kê tỉnh Phú Yên. Đồng thời, xin trân trọng cảm ơn lãnh đạo Tổng Cục Thống kê đã dành sự tin tưởng bổ nhiệm chức vụ Phó Cục trưởng Cục Thống kê tỉnh Phú Yên; cảm ơn các đồng chí cấp ủy, lãnh đạo Cục và toàn thể công chức, người lao động ngành Thống kê tỉnh Phú Yên đã luôn ủng hộ, quan tâm, giúp đỡ, động viên và đồng hành trong suốt quá trình công tác. Trên cương vị mới, ông Cao Thanh Sơn mong muốn tiếp tục nhận được sự quan tâm, phối hợp của các đồng chí cấp ủy, lãnh đạo Cục; sự đồng tâm, hiệp lực của các đơn vị và đội ngũ công chức, người lao động trong toàn Ngành; tiếp tục đoàn kết, nêu cao ý thức trách nhiệm, giữ vững kỷ luật, kỷ cương; nâng cao năng lực thực thi nhiệm vụ, công vụ với sự năng động, đổi mới, thiết thực, hiệu quả và quyết tâm cao… để cùng chung tay xây dựng ngành Thống kê tỉnh Phú Yên ngày càng vững mạnh, phát triển. Ông Lê Hữu Chí – Phó Cục trưởng Cục Thống kê tỉnh Phú Yên tặng hoa chúc mừng Tập thể cấp ủy Cục Thống kê tỉnh Phú Yên tặng hoa chúc mừng
Tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Phú Yên năm 2023
- 29/12/2023 16:36
BÁO CÁOTình hình kinh tế - xã hội năm 2023 Năm 2023, tình hình thế giới tiếp tục biến động nhanh, phức tạp, khó lường, tiềm ẩn nhiều rủi ro nhất là xung đột Nga - Ukraina, gần đây xảy ra xung đột tại Dải Gaza, cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn ngày càng gay gắt, lạm phát gia tăng xảy ra trên toàn cầu, chính sách tiền tệ thắt chặt, tăng lãi suất kéo dài dẫn đến suy giảm tăng trưởng, sụt giảm nhu cầu tiêu dùng ở nhiều nước... Theo Báo cáo triển vọng phát triển châu Á phát hành tháng 12/2023, ADB dự báo tăng trưởng năm 2023 của Việt Nam đạt 5,2%, điều chỉnh giảm 0,6 điểm phần trăm so với dự báo tháng 9/2023; cả WB và IMF đều dự báo kinh tế Việt Nam tăng trưởng 4,7% năm 2023 (WB điều chỉnh giảm 1,3 điểm phần trăm so với dự báo tháng 6/2023 và IMF điều chỉnh giảm 1,1 điểm phần trăm so với dự báo tháng 4/2023. Trong nước, với quyết tâm phục hồi và phát triển kinh tế, tạo đà hoàn thành các mục tiêu kinh tế - xã hội năm 2023 và giai đoạn 2022-2025 theo Nghị quyết Đại hội Đảng XIII, nhiều biện pháp, giải pháp được thực hiện; cùng với đó là giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế; thúc đẩy các động lực tăng trưởng mới của nền kinh tế, tranh thủ các cơ hội mới từ sự dịch chuyển chuỗi cung ứng sản xuất, thương mại, đầu tư toàn cầu và khu vực... nên GDP của Việt Nam năm 2023 tăng 5,05% so với năm 2022. Ở trong tỉnh, bên cạnh một số thuận lợi cơ bản, tỉnh ta tiếp tục gặp nhiều khó khăn, thách thức; nhờ sự vào cuộc quyết liệt của cả hệ thống chính trị, tập trung triển khai đồng bộ các giải pháp, kịp thời tháo gỡ khó khăn trong đầu tư xây dựng, sản xuất kinh doanh thúc đẩy kinh tế phục hồi và phát triển, nên kết quả thực hiện các chỉ tiêu kinh tế - xã hội ước tính năm 2023 có 16/17 chỉ tiêu vượt và đạt kế hoạch, trong đó có 07 chỉ tiêu vượt kế hoạch; 01/17 chỉ tiêu không đạt kế hoạch. Cụ thể như sau: